21.9.11

Lại bàn về Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?

Mặc dù không là nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử, nhưng từ lâu tôi rất quan tâm đến vấn đề đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man (gọi tắt là vấn đề đồng nhất) mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã nhận định: đây là vấn đề sử học nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết.
Mới đây, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 235 (tháng 7-2011), trang 72-74, có đăng bài “Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?” của PGS.TS Lê Đình Sỹ (LĐS). “Trân trọng” ý kiến chứng minh không thể đồng nhất hai nhân vật và cho là họ “suy đoán”, tác giả bài viết đưa ra 4 chứng cứ cho rằng “quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn”. Đã có sự quan tâm tìm hiểu về vấn đề đồng nhất hai nhân vật này, tôi muốn có một số ý kiến trao đổi với tác giả LĐS về những chứng cứ đã nêu.
Trước đây, tác giả LĐS cũng đã biên soạn hai cuốn sách có liên quan đến vấn đề đồng nhất:
Thứ nhất, cuốn “Lịch sử quân sự Việt Nam” tập 2 của Nxb Chính trị Quốc gia in năm 2001, do GS Trần Quốc Vượng và LĐS chủ biên đã không khẳng định việc có thể đồng nhất hai nhân vật: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu, nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận”(1). Tuy viết như vậy nhưng chính trong cuốn sách này lại có nhiều chỗ dùng thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở rồi thay tên Phạm Tu. Đơn cử như câu: “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu” (xem phần sau có trích Đại Việt sử ký toàn thư để thấy sự thiếu chính xác của câu này vì trong chính sử viết về Lý Phục Man và không liên quan đến Phạm Tu). Trong tất cả các bài viết, GS Trần Quốc Vượng không đồng nhất 2 nhân vật, nêu rõ ràng và thống nhất: Phạm Tu là lão tướng quê ở Thanh Liệt. Không rõ tại sao trong cuốn sách mà ông chủ biên cùng tác giả LĐS lại có sai sót không đáng có như vậy?
Thứ hai, trong cuốn “Thăng Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm” được Nxb Hà Nội ấn hành nhân dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Trang 48, 49 cuốn sách này có viết về Phạm Tu như sau: ông là lão tướng; người làng Cổ Sở; khi hy sinh thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã và năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu. Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn sách này có ghi ý kiến nhận xét của PGS. TS Nguyễn Văn Nhật-Viện trưởng Viện Sử học là: Một số khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu là một người hay 2 người,… Đặc biệt, ý kiến kết luận của GS Phan Huy Lê: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.” Vậy nhưng sự bất hợp lý vẫn tồn tại trong cuốn sách đã in.
Để thấy được tính chính xác nội dung tư liệu mà tác giả LĐS khai thác, trong đó phải kể đến chính sử và chúng tôi xin trích các nội dung liên quan cho dễ đối chiếu và tạo thuận lợi khi trình bày các nội dung phân tích tiếp theo:
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi: “Quý Hợi, năm thứ 3 (543) (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.”(2)… Và “Giáp Tý, Thiên Đức năm thứ 1 (544) (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn tướng võ”(3).
Đó là ghi chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng là đứng đầu quân đội.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: trong giấc mộng của Lý Thái Tổ vào năm 1016 cũng được ghi rất cẩn thận ở Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng: “Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng.” (4)
Từ trong chính sử chúng ta thấy chỉ có điểm chung giữa hai nhân vật này: là võ tướng thời Lý Nam Đế.
Chúng ta cùng tìm hiểu lần lượt các chứng cứ mà tác giả LĐS đã đưa ra trong bài báo nêu trên.
Chứng cứ thứ nhất: Chính sử khi viết về khởi nghĩa Lý Bí không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép Phạm Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức. Còn theo dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), văn bia ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (1728) và nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục Man. Thời Lý Bí chỉ có một lần đánh Lâm Ấp do đó Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Xem qua chứng cứ này thì thấy rất hợp lý, nhưng xét kỹ để thấy sự chính xác phụ thuộc độ tin cậy của nguồn tư liệu dùng trong chứng cứ đầu tiên.
Trước hết, tài liệu đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man đáng tin cậy được dựa vào là cuốn dã sử Việt điện u linh, cách nay đã 7 thế kỷ, đã có bản dịch tiếng Việt và tiếng Anh. Có thể nhận ra có nhiều nội dung bản tiếng Việt được người đời sau thêm vào như cuốn Việt điện u linh tập (do dịch giả Lê Hữu Mục toàn biên và viết dẫn nhập tại Huế năm 1959, Khai Trí, Sài Gòn, 1961) có phần đầu viết theo Sử ký của Đỗ Thiên, phần sau có Tiếm bình (nói đến nhân vật Lê Anh Tuấn người làng Thanh Mai, đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất-1694) và Phụ lục là Sự tích đền thờ thần xã An Sở.
Phần đầu theo Sử ký không nói đến việc Lý Nam Đế cử Lý Phục Man đi đánh Lâm Ấp, việc đánh Lâm Ấp được kể trong Phụ lục, nội dung này được chép theo Đại Việt ngoại sử đối chiếu với văn bia ở Quán Giá năm Bảo Thái thứ 9 khá giống nhau.
Như vậy, các tư liệu dã sử, truyền thuyết về việc Lý Phục Man được cử đánh Lâm Ấp thống nhất theo văn bia năm Bảo Thái thứ 9 có xuất xứ rõ ràng và nay vẫn còn tồn tại. Chúng ta cùng tìm cách trả lời câu hỏi: Có thể đồng nhất nhờ thông tin từ văn bia Quán Giá không?
Theo văn bia Quán Giá
Tư liệu rất quan trọng ở đền thờ của Lý Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm 1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự Đức (năm 1855)(5). Không thể tìm ra một chữ nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết trong Thông báo Hán Nôm năm 2009: “còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần”.
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in năm 1995 ghi nguyên văn và bản dịch văn bia thời Bảo Thái (năm 1728) cho thấy: Trang 173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức, với nội dung liên quan: “Thần quyền Thống lĩnh các chư tướng đem quân đi đánh. Thần đã đại phá quân Lâm Ấp ở Cửu Đức”(6)
Xem cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu úy tham nghị mộ phủ Nghị thị bách liêu) có đoạn: … “Vì tướng công đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man (tức người dẹp yên quân man rợ) cho thần được đổi họ theo nhà vua là họ Lý; lại gả công chúa cho thần và phong làm Thiếu úy tham nghị việc triều chính, đứng đầu các quan…”(7)
Đọc phần dịch nghĩa bia năm Bảo Thái thứ 9 (1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất theo quan điểm chủ yếu dựa vào việc Sự tích ghi trên văn bia Quán Giá cho là Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy, đứng đầu các quan; coi đó là vị trí người đứng đầu Ban Võ như của Phạm Tu đã ghi trong chính sử nên đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man. Đây cũng là quan điểm đồng nhất của tác giả LĐS trong chứng cứ thứ nhất và thứ hai. Vậy ta phân tích vấn đề này dựa theo chính sử:
Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, xét nội dung theo văn bia Quán Giá: Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy.
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của Thần khi còn sống là tướng giữ vùng biên cảnh phía Tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay) điều này lại được khẳng định: “Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc Thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh (8/545) chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ (phong 2/544) của nhà nước Vạn Xuân. Nếu Lý Phục Man là vị Tướng quân trưởng đứng đầu ban Võ, Tả tướng mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía Tây thì đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là phi lý cao độ bởi Thần khi sống “có tiếng là người trung liệt”, thác được “Thượng đế khen là trung trực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho Thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy, thì có thể khẳng định khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu diếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Dễ mắc tội khi quân lắm lắm! Như vậy theo giấc mộng của Lý Thái Tổ ghi trong chính sử, Lý Phục Man là tướng dưới quyền Phạm Tu.
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng, người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
Như vậy, từ Đại Việt ngoại sử và văn bia Quán Giá không thể lấy việc viết Lý Phục Man đem quân đánh Lâm Ấp được phong Thái úy (có chỗ ghi là Thiếu úy) mà đồng nhất vị tướng này với Phạm Tu. Đồng thời phân tích này cũng làm rõ sự thiếu khoa học ở chứng cứ thứ hai của tác giả LĐS cho rằng theo Việt điện u linh, Lý Phục Man được phong Thái úy, đứng đầu các quan nên đồng nhất với Phạm Tu đứng đầu Ban Võ (Người được ghi trong chính sử).
Chứng cứ thứ ba: để lý giải Phạm Tu được gọi là Lý Phục Man, tác giả LĐS cho rằng do có công lao lớn nên Phạm Tu là phò mã được ban quốc tính, “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ,…
Như cuốn sách vừa viết năm 2010, tác giả LĐS cũng cho rằng Phạm Tu là “lão tướng”. Chúng ta thấy Phạm Tu đã là “lão tướng” thì không thể là phò mã vì Phạm Tu (476-545) hơn Lý Bí (503-548) đến 27 tuổi, có tuổi ngang với tuổi ông của công chúa. Có thể khẳng định độ tuổi của Phạm Tu như sau:
Độ tuổi của danh tướng Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa Lý Bí
Theo tư liệu Quán Giá thì Tướng quân Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba mươi tuổi. Như vậy, có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571) con đại công thần Triệu Túc.
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của Lý Nam Đế.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ, trở thành thủ lĩnh có uy tín, đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như Triệu Túc (cha Triệu Quang Phục). Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
Việc kiêng tên húy ở làng Giá
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men, Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý khi đối chiếu với chính sử vì Thần (Lý Phục Man) đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man”.
Thần đã xưng tên Phục Man nên hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không khó nhọc tìm kiếm tên húy của Thần. Ở địa phương đã coi tên của Thần và hiệu của Thần là Phục Man. Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Thần, kiêng tên gọi này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Lý Phục Man có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS.TS Trương Sỹ Hùng giải thích trong bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trong Thông báo Hán Nôm học 2009: “Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ”.
Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Hãy xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man vào lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí bắt đầu đến khi Tướng quân hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa Hạ năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu coi Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ còn có khoảng 2 năm. Vậy là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như ý kiến tác giả LĐS và PGS. TS Trương Sỹ Hùng còn cho là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh thời”. Điều này quá phi lý đối với “người con quang vinh của làng Giá”(8).
Ngẫm lại câu: “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán Giá?!
Phạm Tu có được ban Quốc tính không?
Căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được ban quốc tính?
Chứng cứ thứ tư: Tác giả LĐS cho rằng theo truyền thuyết làng Giá thì Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545) và thần tích Thanh Liệt phản ánh cái chết Phạm Tu như vậy.
Truyền thuyết làng Giá đến đầu thế kỷ XX có viết Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch vào năm 545 không? Công trình “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man” của GS Nguyễn Văn Huyên công bố năm 1938 có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất”.
Công trình của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng Lý Phục Man và di tích Quán Giá(9). Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất(10):
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Cũng cần lưu ý là, không có việc Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi ông mất (năm 548).
Vậy, truyền thuyết về Lý Phục Man sau này như các bản quốc ngữ (nhất là mấy chục năm gần đây) đã có bổ sung cố gắng để cho giống với nhân vật Phạm Tu: cha họ Phạm (Phạm Tông), hy sinh ở cửa sông Tô vào năm 545,... Căn cứ vào những tư liệu này để đồng nhất sẽ thiếu tính thuyết phục về khoa học.
*
Những chứng cứ đồng nhất mà tác giả LĐS đưa ra có quá nhiều điều được coi là cơ sở lại không có sức thuyết phục. Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng của Lý Thái Tổ (sau gần 500 năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man là người làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội), danh tướng Phạm Tu không phải là Lý Phục Man ở làng Giá.
Để bạn đọc có thể tìm hiểu đầy đủ công trình nghiên cứu của tác giả bài viết này, xin trân trọng giới thiệu 2 blog chính bàn về vấn đề này (Blog Họ Phạm, blog Tháp Bút, và các bản sách điện tử-ebook). Về cống hiến của danh tướng Phạm Tu(11) có thể tổng kết thành một số điểm chính sau:
1-Vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban Võ nhà nước Vạn Xuân (vị Tổng chỉ huy đầu tiên khi nhà nước Việt có bộ máy chính quyền);
2-Người sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, đã hy sinh oanh liệt ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô (trên đất hương Long Đỗ cổ);
3-Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, giải phóng đất nước, rồi kháng chiến chống quân Lương xâm lược;
4-Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm quân giữ yên bờ cõi phía Nam;
5-Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long;…
Nội dung trên đã được tác giả LĐS khẳng định một lần nữa qua đoạn kết bài báo đã nêu.
Phạm Chí Nhân
Thiếu tá, TS, Khoa Kỹ thuật hàng không, Học viện Phòng không-Không quân.
(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 2: Đấu tranh giành độc lập tự chủ (từ năm 179 TCN đến năm 938), Nxb CTQG, H, 2001, tr.149
(2), (3), (4) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tập 1, Nxb VHTT, H, 2000, tr.252; 252; 366.
(5) Với thời gian khoảng nửa thế kỷ lập ra một văn bia. Có 3 văn bia đầu cùng nói về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man, trong đó văn bia năm 1728 là văn bia quan trọng nhất cơ bản giống với hai văn bia trước, sau đó không còn văn bia nào viết tiếp nội dung Sự tích. Văn bia năm 1728 là văn bản đã tổng hợp từ các văn bia và tư liệu liên quan về Lý Phục Man. Văn bản này là kết luận rất thống nhất của các nhà trí thức xưa (các nhà Nho trong đó có nhiều người con làng Giá) về Lý Phục Man.
(6), (7) Nguyễn Bá Hân, Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H, 1995, tr.173; 174.
(8) Theo tiêu đề bài viết về Lý Phục Man của Nguyễn Khắc Đạm trong cuốn Danh nhân quê hương, Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản năm 1976
(9) Mục 6 từ trang 443 đến 619 cuốn Nguyễn Văn Huyên tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh-tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003.
(10) Trong các nhân vật lịch sử Việt Nam hy sinh vì nước hiếm có ai lại có chuyện kể về việc lâm chung phức tạp đến thế.
(11) Đã công bố trên Wikipedia tiếng Việt, blog Họ Phạm ngày 9-4-2011; và blog Tháp Bút ngày 16-5-2010 và các bản sách điện tử “Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu”.
Theo Tạp chí Lịch sử quân sự số 237 (9/2011) tr. 64-69

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét