Kết nối họ Phạm ở Việt Nam
Tư liệu về Danh nhân Phạm Tu (476-545) kiến trúc sư của nhà nước VẠN XUÂN độc lập
17.6.13
Địa chỉ các blog Họ Phạm của Tháp Bút
Vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với danh tướng Phạm Tu:
1. Kết nối họ Phạm ở Việt Nam
2. Danh tướng Phạm Tu không phải là Lý Phục Man
3. Chuyên đề: Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
4. Về việc đồng nhất Phạm Tu và Lý Phục Man (diễn đàn)
28.9.11
Danh tướng Phạm Tu (476 - 545)
Danh tướng Phạm Tu là người con ưu việt của Thủ đô Hà Nội thân yêu và anh hùng của chúng ta, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình ngay trên mảnh đất quê hương ngàn năm yêu dấu.
Ông sinh năm 476 ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội, mất năm 545 trong cuộc chiến chống quân Lương xâm lược tại cửa sông Tô, trên vùng đất Hà Nội ngày nay (phố Chợ Gạo, quận Hoàn Kiếm bây giờ). Ông là Khai quốc công thần nhà Tiền Lý, tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với sự ra đời của Nhà nước Vạn Xuân năm 544 về mặt thời gian và với Thủ đô Hà Nội về mặt không gian.
Sử sách cũ ghi chép về nhân vật lịch sử này quá ít ỏi, nên người nghiên cứu phải kết hợp chặt chẽ việc khai thác chính sử với thần phả mới có thể dựng lại cuộc đời và sự nghiệp của ông trên những nét lớn và tiêu biểu.
Từ nhỏ Phạm Tu đã chăm đọc sách, năng luyện tập võ nghệ, chắc hẳn rằng không ngoài việc nuôi chí lớn của một chàng trai lớn lên trong cảnh nước nhà đã bị ngoại bang đô hộ. Với công phu rèn luyện đó, ông đã thực sự trở thành một hào kiệt có uy tín lớn trong cả vùng. Rồng mây gặp hội, đến năm Tân Dậu (541), nhân việc Lý Nam Đế (Lý Bí) khởi binh đánh đuổi nhà Lương (Trung Quốc), Phạm Tu mặc dù lúc đó tuổi đã trên 60 vẫn hăng hái triệu tập binh mã ra ứng nghĩa và được hào kiệt các châu quận trong vùng nô nức hưởng ứng. Tại làng cổ Thanh Liệt đến nay vẫn còn lưu lại các tên đất như cửa Triệu (chắc là lấy tên Thái phó Triệu Túc đặt cho đồn binh), cổng Đồn, cửa Trại, lá Cờ, thanh Kiếm, cũng như các tượng voi, tượng ngựa thờ tại Đình Ngoài nằm trên cánh đồng phía Tây Bắc làng, là nơi thờ Phạm Tu làm Thành hoàng đều gợi nhớ lại thời kỳ hào hùng của võ tướng Phạm Tu huấn luyện quân sĩ tại quê nhà, hưởng ứng hành động đánh giặc cứu nước của Lý Bí.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí thắng lợi, tên Thứ sử của nhà Lương là Tiêu Tư bị thua phải cùng quân binh tháo chạy về tận Quảng Châu bên kia biên giới. Đất nước ta đã được giải phóng, năm Giáp Tý (544), Lý Nam Đế vào thành Long Biên xưng vương nước Nam Việt, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân (ý mong đất nước được hưng thịnh muôn đời, mãi mãi là mùa xuân), dựng điện Vạn Thọ, cắt đặt trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn và võ tướng Phạm Tu đứng đầu ban võ.
Về sự kiện đặc biệt quan trọng này, sử sách xưa nay đều nhận định rằng đó là: "Một triều đình có tổ chức" đã ra đời. Đây là chỉ triều đình của Nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam Đế, cách ngày nay đã ngoài 15 thế kỷ. Có thể khẳng định rằng trong lịch sử nước ta Nhà nước Vạn Xuân là quốc gia dân tộc thứ ba ra đời vào đầu Xuân năm 544, sau hai Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc đã xuất hiện từ thời trước Công nguyên.
Nhưng rồi quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) ở phía Nam kéo sang lấn chiếm quận Cửu Đức (vùng đất Hà Tĩnh ngày nay). Lý Nam Đế lại cử tướng Phạm Tu cầm quân vào đánh dẹp, đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi phía Nam. Hết nạn lớn này đến nạn lớn khác, tháng 6 năm Ất Sửu (545), tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên lại đem quân sang đánh nước ta, Lý Nam Đế cùng các tướng đưa quân ra cản giặc. Tướng Phạm Tu trực tiếp cầm quân ra cầm cự được gần hai tháng, chiến đấu vô cùng anh dũng, chặn từng bước tiến quân của giặc. Nhưng vì tuổi cao - lúc này ông đã ngoài 70 tuổi, thế giặc lại mạnh vì thế cánh quân do ông trực tiếp chỉ huy đã thất bại tại vùng Chu Diên (khu vực Hải Dương - Hưng Yên ngày nay) nên phải lui về giữ thành ở ngay cửa sông Tô Lịch (khu vực Chợ Gạo, gần chợ Đồng Xuân hiện nay). Quân Lương siết chặt vòng vây liên tiếp tấn công, cuối cùng ông đã anh dũng hy sinh tại chiến trường vào ngày 20 tháng 7 năm đó (545). Lý Nam Đế cùng các triều quan xét công trạng lão tướng Phạm Tu truy tặng phong tước Long Biên hầu, đặt tên thụy là Đô Hồ (nên có tên gọi là Đô Hồ tướng quân), phong là bản cảnh Thành hoàng, sắc phong cho bản hương là Thang mộc ấp, sưu sai tạp dịch đều được miễn trừ, ban 100 nén bạc lập miếu phụng sự lưu truyền mãi mãi...
GS Đinh Xuân Lâm
(QĐND-Sự kiện và nhân chứng)
Ông sinh năm 476 ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì thành phố Hà Nội, mất năm 545 trong cuộc chiến chống quân Lương xâm lược tại cửa sông Tô, trên vùng đất Hà Nội ngày nay (phố Chợ Gạo, quận Hoàn Kiếm bây giờ). Ông là Khai quốc công thần nhà Tiền Lý, tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với sự ra đời của Nhà nước Vạn Xuân năm 544 về mặt thời gian và với Thủ đô Hà Nội về mặt không gian.
Sử sách cũ ghi chép về nhân vật lịch sử này quá ít ỏi, nên người nghiên cứu phải kết hợp chặt chẽ việc khai thác chính sử với thần phả mới có thể dựng lại cuộc đời và sự nghiệp của ông trên những nét lớn và tiêu biểu.
Từ nhỏ Phạm Tu đã chăm đọc sách, năng luyện tập võ nghệ, chắc hẳn rằng không ngoài việc nuôi chí lớn của một chàng trai lớn lên trong cảnh nước nhà đã bị ngoại bang đô hộ. Với công phu rèn luyện đó, ông đã thực sự trở thành một hào kiệt có uy tín lớn trong cả vùng. Rồng mây gặp hội, đến năm Tân Dậu (541), nhân việc Lý Nam Đế (Lý Bí) khởi binh đánh đuổi nhà Lương (Trung Quốc), Phạm Tu mặc dù lúc đó tuổi đã trên 60 vẫn hăng hái triệu tập binh mã ra ứng nghĩa và được hào kiệt các châu quận trong vùng nô nức hưởng ứng. Tại làng cổ Thanh Liệt đến nay vẫn còn lưu lại các tên đất như cửa Triệu (chắc là lấy tên Thái phó Triệu Túc đặt cho đồn binh), cổng Đồn, cửa Trại, lá Cờ, thanh Kiếm, cũng như các tượng voi, tượng ngựa thờ tại Đình Ngoài nằm trên cánh đồng phía Tây Bắc làng, là nơi thờ Phạm Tu làm Thành hoàng đều gợi nhớ lại thời kỳ hào hùng của võ tướng Phạm Tu huấn luyện quân sĩ tại quê nhà, hưởng ứng hành động đánh giặc cứu nước của Lý Bí.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí thắng lợi, tên Thứ sử của nhà Lương là Tiêu Tư bị thua phải cùng quân binh tháo chạy về tận Quảng Châu bên kia biên giới. Đất nước ta đã được giải phóng, năm Giáp Tý (544), Lý Nam Đế vào thành Long Biên xưng vương nước Nam Việt, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân (ý mong đất nước được hưng thịnh muôn đời, mãi mãi là mùa xuân), dựng điện Vạn Thọ, cắt đặt trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn và võ tướng Phạm Tu đứng đầu ban võ.
Về sự kiện đặc biệt quan trọng này, sử sách xưa nay đều nhận định rằng đó là: "Một triều đình có tổ chức" đã ra đời. Đây là chỉ triều đình của Nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam Đế, cách ngày nay đã ngoài 15 thế kỷ. Có thể khẳng định rằng trong lịch sử nước ta Nhà nước Vạn Xuân là quốc gia dân tộc thứ ba ra đời vào đầu Xuân năm 544, sau hai Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc đã xuất hiện từ thời trước Công nguyên.
Nhưng rồi quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) ở phía Nam kéo sang lấn chiếm quận Cửu Đức (vùng đất Hà Tĩnh ngày nay). Lý Nam Đế lại cử tướng Phạm Tu cầm quân vào đánh dẹp, đuổi được giặc ra khỏi bờ cõi phía Nam. Hết nạn lớn này đến nạn lớn khác, tháng 6 năm Ất Sửu (545), tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên lại đem quân sang đánh nước ta, Lý Nam Đế cùng các tướng đưa quân ra cản giặc. Tướng Phạm Tu trực tiếp cầm quân ra cầm cự được gần hai tháng, chiến đấu vô cùng anh dũng, chặn từng bước tiến quân của giặc. Nhưng vì tuổi cao - lúc này ông đã ngoài 70 tuổi, thế giặc lại mạnh vì thế cánh quân do ông trực tiếp chỉ huy đã thất bại tại vùng Chu Diên (khu vực Hải Dương - Hưng Yên ngày nay) nên phải lui về giữ thành ở ngay cửa sông Tô Lịch (khu vực Chợ Gạo, gần chợ Đồng Xuân hiện nay). Quân Lương siết chặt vòng vây liên tiếp tấn công, cuối cùng ông đã anh dũng hy sinh tại chiến trường vào ngày 20 tháng 7 năm đó (545). Lý Nam Đế cùng các triều quan xét công trạng lão tướng Phạm Tu truy tặng phong tước Long Biên hầu, đặt tên thụy là Đô Hồ (nên có tên gọi là Đô Hồ tướng quân), phong là bản cảnh Thành hoàng, sắc phong cho bản hương là Thang mộc ấp, sưu sai tạp dịch đều được miễn trừ, ban 100 nén bạc lập miếu phụng sự lưu truyền mãi mãi...
GS Đinh Xuân Lâm
(QĐND-Sự kiện và nhân chứng)
21.9.11
Lại bàn về Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?
Mặc dù không là nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử, nhưng từ lâu tôi rất quan tâm đến vấn đề đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man (gọi tắt là vấn đề đồng nhất) mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã nhận định: đây là vấn đề sử học nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết.
Mới đây, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 235 (tháng 7-2011), trang 72-74, có đăng bài “Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?” của PGS.TS Lê Đình Sỹ (LĐS). “Trân trọng” ý kiến chứng minh không thể đồng nhất hai nhân vật và cho là họ “suy đoán”, tác giả bài viết đưa ra 4 chứng cứ cho rằng “quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn”. Đã có sự quan tâm tìm hiểu về vấn đề đồng nhất hai nhân vật này, tôi muốn có một số ý kiến trao đổi với tác giả LĐS về những chứng cứ đã nêu.
Trước đây, tác giả LĐS cũng đã biên soạn hai cuốn sách có liên quan đến vấn đề đồng nhất:
Thứ nhất, cuốn “Lịch sử quân sự Việt Nam” tập 2 của Nxb Chính trị Quốc gia in năm 2001, do GS Trần Quốc Vượng và LĐS chủ biên đã không khẳng định việc có thể đồng nhất hai nhân vật: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu, nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận”(1). Tuy viết như vậy nhưng chính trong cuốn sách này lại có nhiều chỗ dùng thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở rồi thay tên Phạm Tu. Đơn cử như câu: “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu” (xem phần sau có trích Đại Việt sử ký toàn thư để thấy sự thiếu chính xác của câu này vì trong chính sử viết về Lý Phục Man và không liên quan đến Phạm Tu). Trong tất cả các bài viết, GS Trần Quốc Vượng không đồng nhất 2 nhân vật, nêu rõ ràng và thống nhất: Phạm Tu là lão tướng quê ở Thanh Liệt. Không rõ tại sao trong cuốn sách mà ông chủ biên cùng tác giả LĐS lại có sai sót không đáng có như vậy?
Thứ hai, trong cuốn “Thăng Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm” được Nxb Hà Nội ấn hành nhân dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Trang 48, 49 cuốn sách này có viết về Phạm Tu như sau: ông là lão tướng; người làng Cổ Sở; khi hy sinh thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã và năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu. Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn sách này có ghi ý kiến nhận xét của PGS. TS Nguyễn Văn Nhật-Viện trưởng Viện Sử học là: Một số khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu là một người hay 2 người,… Đặc biệt, ý kiến kết luận của GS Phan Huy Lê: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.” Vậy nhưng sự bất hợp lý vẫn tồn tại trong cuốn sách đã in.
Để thấy được tính chính xác nội dung tư liệu mà tác giả LĐS khai thác, trong đó phải kể đến chính sử và chúng tôi xin trích các nội dung liên quan cho dễ đối chiếu và tạo thuận lợi khi trình bày các nội dung phân tích tiếp theo:
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi: “Quý Hợi, năm thứ 3 (543) (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.”(2)… Và “Giáp Tý, Thiên Đức năm thứ 1 (544) (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn tướng võ”(3).
Đó là ghi chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng là đứng đầu quân đội.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: trong giấc mộng của Lý Thái Tổ vào năm 1016 cũng được ghi rất cẩn thận ở Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng: “Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng.” (4)
Từ trong chính sử chúng ta thấy chỉ có điểm chung giữa hai nhân vật này: là võ tướng thời Lý Nam Đế.
Chúng ta cùng tìm hiểu lần lượt các chứng cứ mà tác giả LĐS đã đưa ra trong bài báo nêu trên.
Chứng cứ thứ nhất: Chính sử khi viết về khởi nghĩa Lý Bí không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép Phạm Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức. Còn theo dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), văn bia ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (1728) và nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục Man. Thời Lý Bí chỉ có một lần đánh Lâm Ấp do đó Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Xem qua chứng cứ này thì thấy rất hợp lý, nhưng xét kỹ để thấy sự chính xác phụ thuộc độ tin cậy của nguồn tư liệu dùng trong chứng cứ đầu tiên.
Trước hết, tài liệu đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man đáng tin cậy được dựa vào là cuốn dã sử Việt điện u linh, cách nay đã 7 thế kỷ, đã có bản dịch tiếng Việt và tiếng Anh. Có thể nhận ra có nhiều nội dung bản tiếng Việt được người đời sau thêm vào như cuốn Việt điện u linh tập (do dịch giả Lê Hữu Mục toàn biên và viết dẫn nhập tại Huế năm 1959, Khai Trí, Sài Gòn, 1961) có phần đầu viết theo Sử ký của Đỗ Thiên, phần sau có Tiếm bình (nói đến nhân vật Lê Anh Tuấn người làng Thanh Mai, đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất-1694) và Phụ lục là Sự tích đền thờ thần xã An Sở.
Phần đầu theo Sử ký không nói đến việc Lý Nam Đế cử Lý Phục Man đi đánh Lâm Ấp, việc đánh Lâm Ấp được kể trong Phụ lục, nội dung này được chép theo Đại Việt ngoại sử đối chiếu với văn bia ở Quán Giá năm Bảo Thái thứ 9 khá giống nhau.
Như vậy, các tư liệu dã sử, truyền thuyết về việc Lý Phục Man được cử đánh Lâm Ấp thống nhất theo văn bia năm Bảo Thái thứ 9 có xuất xứ rõ ràng và nay vẫn còn tồn tại. Chúng ta cùng tìm cách trả lời câu hỏi: Có thể đồng nhất nhờ thông tin từ văn bia Quán Giá không?
Theo văn bia Quán Giá
Tư liệu rất quan trọng ở đền thờ của Lý Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm 1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự Đức (năm 1855)(5). Không thể tìm ra một chữ nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết trong Thông báo Hán Nôm năm 2009: “còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần”.
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in năm 1995 ghi nguyên văn và bản dịch văn bia thời Bảo Thái (năm 1728) cho thấy: Trang 173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức, với nội dung liên quan: “Thần quyền Thống lĩnh các chư tướng đem quân đi đánh. Thần đã đại phá quân Lâm Ấp ở Cửu Đức”(6)
Xem cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu úy tham nghị mộ phủ Nghị thị bách liêu) có đoạn: … “Vì tướng công đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man (tức người dẹp yên quân man rợ) cho thần được đổi họ theo nhà vua là họ Lý; lại gả công chúa cho thần và phong làm Thiếu úy tham nghị việc triều chính, đứng đầu các quan…”(7)
Đọc phần dịch nghĩa bia năm Bảo Thái thứ 9 (1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất theo quan điểm chủ yếu dựa vào việc Sự tích ghi trên văn bia Quán Giá cho là Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy, đứng đầu các quan; coi đó là vị trí người đứng đầu Ban Võ như của Phạm Tu đã ghi trong chính sử nên đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man. Đây cũng là quan điểm đồng nhất của tác giả LĐS trong chứng cứ thứ nhất và thứ hai. Vậy ta phân tích vấn đề này dựa theo chính sử:
Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, xét nội dung theo văn bia Quán Giá: Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy.
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của Thần khi còn sống là tướng giữ vùng biên cảnh phía Tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay) điều này lại được khẳng định: “Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc Thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh (8/545) chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ (phong 2/544) của nhà nước Vạn Xuân. Nếu Lý Phục Man là vị Tướng quân trưởng đứng đầu ban Võ, Tả tướng mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía Tây thì đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là phi lý cao độ bởi Thần khi sống “có tiếng là người trung liệt”, thác được “Thượng đế khen là trung trực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho Thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy, thì có thể khẳng định khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu diếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Dễ mắc tội khi quân lắm lắm! Như vậy theo giấc mộng của Lý Thái Tổ ghi trong chính sử, Lý Phục Man là tướng dưới quyền Phạm Tu.
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng, người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
Như vậy, từ Đại Việt ngoại sử và văn bia Quán Giá không thể lấy việc viết Lý Phục Man đem quân đánh Lâm Ấp được phong Thái úy (có chỗ ghi là Thiếu úy) mà đồng nhất vị tướng này với Phạm Tu. Đồng thời phân tích này cũng làm rõ sự thiếu khoa học ở chứng cứ thứ hai của tác giả LĐS cho rằng theo Việt điện u linh, Lý Phục Man được phong Thái úy, đứng đầu các quan nên đồng nhất với Phạm Tu đứng đầu Ban Võ (Người được ghi trong chính sử).
Chứng cứ thứ ba: để lý giải Phạm Tu được gọi là Lý Phục Man, tác giả LĐS cho rằng do có công lao lớn nên Phạm Tu là phò mã được ban quốc tính, “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ,…
Như cuốn sách vừa viết năm 2010, tác giả LĐS cũng cho rằng Phạm Tu là “lão tướng”. Chúng ta thấy Phạm Tu đã là “lão tướng” thì không thể là phò mã vì Phạm Tu (476-545) hơn Lý Bí (503-548) đến 27 tuổi, có tuổi ngang với tuổi ông của công chúa. Có thể khẳng định độ tuổi của Phạm Tu như sau:
Độ tuổi của danh tướng Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa Lý Bí
Theo tư liệu Quán Giá thì Tướng quân Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba mươi tuổi. Như vậy, có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571) con đại công thần Triệu Túc.
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của Lý Nam Đế.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ, trở thành thủ lĩnh có uy tín, đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như Triệu Túc (cha Triệu Quang Phục). Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
Việc kiêng tên húy ở làng Giá
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men, Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý khi đối chiếu với chính sử vì Thần (Lý Phục Man) đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man”.
Thần đã xưng tên Phục Man nên hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không khó nhọc tìm kiếm tên húy của Thần. Ở địa phương đã coi tên của Thần và hiệu của Thần là Phục Man. Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Thần, kiêng tên gọi này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Lý Phục Man có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS.TS Trương Sỹ Hùng giải thích trong bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trong Thông báo Hán Nôm học 2009: “Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ”.
Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Hãy xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man vào lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí bắt đầu đến khi Tướng quân hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa Hạ năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu coi Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ còn có khoảng 2 năm. Vậy là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như ý kiến tác giả LĐS và PGS. TS Trương Sỹ Hùng còn cho là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh thời”. Điều này quá phi lý đối với “người con quang vinh của làng Giá”(8).
Ngẫm lại câu: “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán Giá?!
Phạm Tu có được ban Quốc tính không?
Căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được ban quốc tính?
Chứng cứ thứ tư: Tác giả LĐS cho rằng theo truyền thuyết làng Giá thì Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545) và thần tích Thanh Liệt phản ánh cái chết Phạm Tu như vậy.
Truyền thuyết làng Giá đến đầu thế kỷ XX có viết Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch vào năm 545 không? Công trình “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man” của GS Nguyễn Văn Huyên công bố năm 1938 có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất”.
Công trình của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng Lý Phục Man và di tích Quán Giá(9). Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất(10):
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Cũng cần lưu ý là, không có việc Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi ông mất (năm 548).
Vậy, truyền thuyết về Lý Phục Man sau này như các bản quốc ngữ (nhất là mấy chục năm gần đây) đã có bổ sung cố gắng để cho giống với nhân vật Phạm Tu: cha họ Phạm (Phạm Tông), hy sinh ở cửa sông Tô vào năm 545,... Căn cứ vào những tư liệu này để đồng nhất sẽ thiếu tính thuyết phục về khoa học.
*
Những chứng cứ đồng nhất mà tác giả LĐS đưa ra có quá nhiều điều được coi là cơ sở lại không có sức thuyết phục. Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng của Lý Thái Tổ (sau gần 500 năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man là người làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội), danh tướng Phạm Tu không phải là Lý Phục Man ở làng Giá.
Để bạn đọc có thể tìm hiểu đầy đủ công trình nghiên cứu của tác giả bài viết này, xin trân trọng giới thiệu 2 blog chính bàn về vấn đề này (Blog Họ Phạm, blog Tháp Bút, và các bản sách điện tử-ebook). Về cống hiến của danh tướng Phạm Tu(11) có thể tổng kết thành một số điểm chính sau:
1-Vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban Võ nhà nước Vạn Xuân (vị Tổng chỉ huy đầu tiên khi nhà nước Việt có bộ máy chính quyền);
2-Người sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, đã hy sinh oanh liệt ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô (trên đất hương Long Đỗ cổ);
3-Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, giải phóng đất nước, rồi kháng chiến chống quân Lương xâm lược;
4-Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm quân giữ yên bờ cõi phía Nam;
5-Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long;…
Nội dung trên đã được tác giả LĐS khẳng định một lần nữa qua đoạn kết bài báo đã nêu.
Phạm Chí Nhân
Thiếu tá, TS, Khoa Kỹ thuật hàng không, Học viện Phòng không-Không quân.
(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 2: Đấu tranh giành độc lập tự chủ (từ năm 179 TCN đến năm 938), Nxb CTQG, H, 2001, tr.149
(2), (3), (4) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tập 1, Nxb VHTT, H, 2000, tr.252; 252; 366.
(5) Với thời gian khoảng nửa thế kỷ lập ra một văn bia. Có 3 văn bia đầu cùng nói về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man, trong đó văn bia năm 1728 là văn bia quan trọng nhất cơ bản giống với hai văn bia trước, sau đó không còn văn bia nào viết tiếp nội dung Sự tích. Văn bia năm 1728 là văn bản đã tổng hợp từ các văn bia và tư liệu liên quan về Lý Phục Man. Văn bản này là kết luận rất thống nhất của các nhà trí thức xưa (các nhà Nho trong đó có nhiều người con làng Giá) về Lý Phục Man.
(6), (7) Nguyễn Bá Hân, Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H, 1995, tr.173; 174.
(8) Theo tiêu đề bài viết về Lý Phục Man của Nguyễn Khắc Đạm trong cuốn Danh nhân quê hương, Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản năm 1976
(9) Mục 6 từ trang 443 đến 619 cuốn Nguyễn Văn Huyên tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh-tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003.
(10) Trong các nhân vật lịch sử Việt Nam hy sinh vì nước hiếm có ai lại có chuyện kể về việc lâm chung phức tạp đến thế.
(11) Đã công bố trên Wikipedia tiếng Việt, blog Họ Phạm ngày 9-4-2011; và blog Tháp Bút ngày 16-5-2010 và các bản sách điện tử “Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu”.
Theo Tạp chí Lịch sử quân sự số 237 (9/2011) tr. 64-69
Mới đây, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 235 (tháng 7-2011), trang 72-74, có đăng bài “Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?” của PGS.TS Lê Đình Sỹ (LĐS). “Trân trọng” ý kiến chứng minh không thể đồng nhất hai nhân vật và cho là họ “suy đoán”, tác giả bài viết đưa ra 4 chứng cứ cho rằng “quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn”. Đã có sự quan tâm tìm hiểu về vấn đề đồng nhất hai nhân vật này, tôi muốn có một số ý kiến trao đổi với tác giả LĐS về những chứng cứ đã nêu.
Trước đây, tác giả LĐS cũng đã biên soạn hai cuốn sách có liên quan đến vấn đề đồng nhất:
Thứ nhất, cuốn “Lịch sử quân sự Việt Nam” tập 2 của Nxb Chính trị Quốc gia in năm 2001, do GS Trần Quốc Vượng và LĐS chủ biên đã không khẳng định việc có thể đồng nhất hai nhân vật: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu, nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận”(1). Tuy viết như vậy nhưng chính trong cuốn sách này lại có nhiều chỗ dùng thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở rồi thay tên Phạm Tu. Đơn cử như câu: “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu” (xem phần sau có trích Đại Việt sử ký toàn thư để thấy sự thiếu chính xác của câu này vì trong chính sử viết về Lý Phục Man và không liên quan đến Phạm Tu). Trong tất cả các bài viết, GS Trần Quốc Vượng không đồng nhất 2 nhân vật, nêu rõ ràng và thống nhất: Phạm Tu là lão tướng quê ở Thanh Liệt. Không rõ tại sao trong cuốn sách mà ông chủ biên cùng tác giả LĐS lại có sai sót không đáng có như vậy?
Thứ hai, trong cuốn “Thăng Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm” được Nxb Hà Nội ấn hành nhân dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Trang 48, 49 cuốn sách này có viết về Phạm Tu như sau: ông là lão tướng; người làng Cổ Sở; khi hy sinh thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã và năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu. Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn sách này có ghi ý kiến nhận xét của PGS. TS Nguyễn Văn Nhật-Viện trưởng Viện Sử học là: Một số khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu là một người hay 2 người,… Đặc biệt, ý kiến kết luận của GS Phan Huy Lê: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.” Vậy nhưng sự bất hợp lý vẫn tồn tại trong cuốn sách đã in.
Để thấy được tính chính xác nội dung tư liệu mà tác giả LĐS khai thác, trong đó phải kể đến chính sử và chúng tôi xin trích các nội dung liên quan cho dễ đối chiếu và tạo thuận lợi khi trình bày các nội dung phân tích tiếp theo:
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi: “Quý Hợi, năm thứ 3 (543) (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.”(2)… Và “Giáp Tý, Thiên Đức năm thứ 1 (544) (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn tướng võ”(3).
Đó là ghi chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng là đứng đầu quân đội.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: trong giấc mộng của Lý Thái Tổ vào năm 1016 cũng được ghi rất cẩn thận ở Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng: “Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng.” (4)
Từ trong chính sử chúng ta thấy chỉ có điểm chung giữa hai nhân vật này: là võ tướng thời Lý Nam Đế.
Chúng ta cùng tìm hiểu lần lượt các chứng cứ mà tác giả LĐS đã đưa ra trong bài báo nêu trên.
Chứng cứ thứ nhất: Chính sử khi viết về khởi nghĩa Lý Bí không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép Phạm Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức. Còn theo dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), văn bia ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (1728) và nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục Man. Thời Lý Bí chỉ có một lần đánh Lâm Ấp do đó Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Xem qua chứng cứ này thì thấy rất hợp lý, nhưng xét kỹ để thấy sự chính xác phụ thuộc độ tin cậy của nguồn tư liệu dùng trong chứng cứ đầu tiên.
Trước hết, tài liệu đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man đáng tin cậy được dựa vào là cuốn dã sử Việt điện u linh, cách nay đã 7 thế kỷ, đã có bản dịch tiếng Việt và tiếng Anh. Có thể nhận ra có nhiều nội dung bản tiếng Việt được người đời sau thêm vào như cuốn Việt điện u linh tập (do dịch giả Lê Hữu Mục toàn biên và viết dẫn nhập tại Huế năm 1959, Khai Trí, Sài Gòn, 1961) có phần đầu viết theo Sử ký của Đỗ Thiên, phần sau có Tiếm bình (nói đến nhân vật Lê Anh Tuấn người làng Thanh Mai, đỗ Tiến sĩ năm Giáp Tuất-1694) và Phụ lục là Sự tích đền thờ thần xã An Sở.
Phần đầu theo Sử ký không nói đến việc Lý Nam Đế cử Lý Phục Man đi đánh Lâm Ấp, việc đánh Lâm Ấp được kể trong Phụ lục, nội dung này được chép theo Đại Việt ngoại sử đối chiếu với văn bia ở Quán Giá năm Bảo Thái thứ 9 khá giống nhau.
Như vậy, các tư liệu dã sử, truyền thuyết về việc Lý Phục Man được cử đánh Lâm Ấp thống nhất theo văn bia năm Bảo Thái thứ 9 có xuất xứ rõ ràng và nay vẫn còn tồn tại. Chúng ta cùng tìm cách trả lời câu hỏi: Có thể đồng nhất nhờ thông tin từ văn bia Quán Giá không?
Theo văn bia Quán Giá
Tư liệu rất quan trọng ở đền thờ của Lý Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm 1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự Đức (năm 1855)(5). Không thể tìm ra một chữ nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết trong Thông báo Hán Nôm năm 2009: “còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần”.
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in năm 1995 ghi nguyên văn và bản dịch văn bia thời Bảo Thái (năm 1728) cho thấy: Trang 173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức, với nội dung liên quan: “Thần quyền Thống lĩnh các chư tướng đem quân đi đánh. Thần đã đại phá quân Lâm Ấp ở Cửu Đức”(6)
Xem cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu úy tham nghị mộ phủ Nghị thị bách liêu) có đoạn: … “Vì tướng công đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man (tức người dẹp yên quân man rợ) cho thần được đổi họ theo nhà vua là họ Lý; lại gả công chúa cho thần và phong làm Thiếu úy tham nghị việc triều chính, đứng đầu các quan…”(7)
Đọc phần dịch nghĩa bia năm Bảo Thái thứ 9 (1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất theo quan điểm chủ yếu dựa vào việc Sự tích ghi trên văn bia Quán Giá cho là Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy, đứng đầu các quan; coi đó là vị trí người đứng đầu Ban Võ như của Phạm Tu đã ghi trong chính sử nên đồng nhất Phạm Tu-Lý Phục Man. Đây cũng là quan điểm đồng nhất của tác giả LĐS trong chứng cứ thứ nhất và thứ hai. Vậy ta phân tích vấn đề này dựa theo chính sử:
Dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, xét nội dung theo văn bia Quán Giá: Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy.
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của Thần khi còn sống là tướng giữ vùng biên cảnh phía Tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay) điều này lại được khẳng định: “Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc Thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh (8/545) chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ (phong 2/544) của nhà nước Vạn Xuân. Nếu Lý Phục Man là vị Tướng quân trưởng đứng đầu ban Võ, Tả tướng mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía Tây thì đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là phi lý cao độ bởi Thần khi sống “có tiếng là người trung liệt”, thác được “Thượng đế khen là trung trực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho Thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy, thì có thể khẳng định khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu diếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Dễ mắc tội khi quân lắm lắm! Như vậy theo giấc mộng của Lý Thái Tổ ghi trong chính sử, Lý Phục Man là tướng dưới quyền Phạm Tu.
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng, người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
Như vậy, từ Đại Việt ngoại sử và văn bia Quán Giá không thể lấy việc viết Lý Phục Man đem quân đánh Lâm Ấp được phong Thái úy (có chỗ ghi là Thiếu úy) mà đồng nhất vị tướng này với Phạm Tu. Đồng thời phân tích này cũng làm rõ sự thiếu khoa học ở chứng cứ thứ hai của tác giả LĐS cho rằng theo Việt điện u linh, Lý Phục Man được phong Thái úy, đứng đầu các quan nên đồng nhất với Phạm Tu đứng đầu Ban Võ (Người được ghi trong chính sử).
Chứng cứ thứ ba: để lý giải Phạm Tu được gọi là Lý Phục Man, tác giả LĐS cho rằng do có công lao lớn nên Phạm Tu là phò mã được ban quốc tính, “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ,…
Như cuốn sách vừa viết năm 2010, tác giả LĐS cũng cho rằng Phạm Tu là “lão tướng”. Chúng ta thấy Phạm Tu đã là “lão tướng” thì không thể là phò mã vì Phạm Tu (476-545) hơn Lý Bí (503-548) đến 27 tuổi, có tuổi ngang với tuổi ông của công chúa. Có thể khẳng định độ tuổi của Phạm Tu như sau:
Độ tuổi của danh tướng Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa Lý Bí
Theo tư liệu Quán Giá thì Tướng quân Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba mươi tuổi. Như vậy, có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571) con đại công thần Triệu Túc.
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của Lý Nam Đế.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ, trở thành thủ lĩnh có uy tín, đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như Triệu Túc (cha Triệu Quang Phục). Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
Việc kiêng tên húy ở làng Giá
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men, Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý khi đối chiếu với chính sử vì Thần (Lý Phục Man) đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man”.
Thần đã xưng tên Phục Man nên hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không khó nhọc tìm kiếm tên húy của Thần. Ở địa phương đã coi tên của Thần và hiệu của Thần là Phục Man. Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Thần, kiêng tên gọi này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Lý Phục Man có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS.TS Trương Sỹ Hùng giải thích trong bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trong Thông báo Hán Nôm học 2009: “Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ”.
Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Hãy xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man vào lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí bắt đầu đến khi Tướng quân hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa Hạ năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu coi Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ còn có khoảng 2 năm. Vậy là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như ý kiến tác giả LĐS và PGS. TS Trương Sỹ Hùng còn cho là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh thời”. Điều này quá phi lý đối với “người con quang vinh của làng Giá”(8).
Ngẫm lại câu: “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán Giá?!
Phạm Tu có được ban Quốc tính không?
Căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được ban quốc tính?
Chứng cứ thứ tư: Tác giả LĐS cho rằng theo truyền thuyết làng Giá thì Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545) và thần tích Thanh Liệt phản ánh cái chết Phạm Tu như vậy.
Truyền thuyết làng Giá đến đầu thế kỷ XX có viết Lý Phục Man hy sinh ở cửa sông Tô Lịch vào năm 545 không? Công trình “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man” của GS Nguyễn Văn Huyên công bố năm 1938 có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất”.
Công trình của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng Lý Phục Man và di tích Quán Giá(9). Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất(10):
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Cũng cần lưu ý là, không có việc Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi ông mất (năm 548).
Vậy, truyền thuyết về Lý Phục Man sau này như các bản quốc ngữ (nhất là mấy chục năm gần đây) đã có bổ sung cố gắng để cho giống với nhân vật Phạm Tu: cha họ Phạm (Phạm Tông), hy sinh ở cửa sông Tô vào năm 545,... Căn cứ vào những tư liệu này để đồng nhất sẽ thiếu tính thuyết phục về khoa học.
*
Những chứng cứ đồng nhất mà tác giả LĐS đưa ra có quá nhiều điều được coi là cơ sở lại không có sức thuyết phục. Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng của Lý Thái Tổ (sau gần 500 năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man là người làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội), danh tướng Phạm Tu không phải là Lý Phục Man ở làng Giá.
Để bạn đọc có thể tìm hiểu đầy đủ công trình nghiên cứu của tác giả bài viết này, xin trân trọng giới thiệu 2 blog chính bàn về vấn đề này (Blog Họ Phạm, blog Tháp Bút, và các bản sách điện tử-ebook). Về cống hiến của danh tướng Phạm Tu(11) có thể tổng kết thành một số điểm chính sau:
1-Vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban Võ nhà nước Vạn Xuân (vị Tổng chỉ huy đầu tiên khi nhà nước Việt có bộ máy chính quyền);
2-Người sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, đã hy sinh oanh liệt ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô (trên đất hương Long Đỗ cổ);
3-Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, giải phóng đất nước, rồi kháng chiến chống quân Lương xâm lược;
4-Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm quân giữ yên bờ cõi phía Nam;
5-Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long;…
Nội dung trên đã được tác giả LĐS khẳng định một lần nữa qua đoạn kết bài báo đã nêu.
Phạm Chí Nhân
Thiếu tá, TS, Khoa Kỹ thuật hàng không, Học viện Phòng không-Không quân.
(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 2: Đấu tranh giành độc lập tự chủ (từ năm 179 TCN đến năm 938), Nxb CTQG, H, 2001, tr.149
(2), (3), (4) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tập 1, Nxb VHTT, H, 2000, tr.252; 252; 366.
(5) Với thời gian khoảng nửa thế kỷ lập ra một văn bia. Có 3 văn bia đầu cùng nói về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man, trong đó văn bia năm 1728 là văn bia quan trọng nhất cơ bản giống với hai văn bia trước, sau đó không còn văn bia nào viết tiếp nội dung Sự tích. Văn bia năm 1728 là văn bản đã tổng hợp từ các văn bia và tư liệu liên quan về Lý Phục Man. Văn bản này là kết luận rất thống nhất của các nhà trí thức xưa (các nhà Nho trong đó có nhiều người con làng Giá) về Lý Phục Man.
(6), (7) Nguyễn Bá Hân, Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H, 1995, tr.173; 174.
(8) Theo tiêu đề bài viết về Lý Phục Man của Nguyễn Khắc Đạm trong cuốn Danh nhân quê hương, Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình xuất bản năm 1976
(9) Mục 6 từ trang 443 đến 619 cuốn Nguyễn Văn Huyên tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh-tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003.
(10) Trong các nhân vật lịch sử Việt Nam hy sinh vì nước hiếm có ai lại có chuyện kể về việc lâm chung phức tạp đến thế.
(11) Đã công bố trên Wikipedia tiếng Việt, blog Họ Phạm ngày 9-4-2011; và blog Tháp Bút ngày 16-5-2010 và các bản sách điện tử “Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu”.
Theo Tạp chí Lịch sử quân sự số 237 (9/2011) tr. 64-69
Danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người?
Xung quanh nhân vật lịch sử Phạm Tu lâu nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau trong giới nghiên cứu lịch sử. Đó là Phạm Tu có phải là Lý Phục Man không? Quê hương Phạm Tu nơi nào? Ông mất ở đâu, vào năm nào và được mai táng ở vùng nào? Do thông tin từ chính sử quá sơ sài, còn tư liệu dân gian, thần tích, huyền thoại thì phản ánh rất khác nhau; nên mặc dù các nhà sử học đã viết nhiều, thảo luận nhiều về Phạm Tu, nhưng ý kiến vẫn còn phân tán. Đặc biệt vấn đề giữa phạm Tu và Lý Phục Man còn gây tranh luận. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến việc tôn vinh vị anh hùng khai quốc công thần triều Tiền Lý, người đã có cống hiến lớn lao và hy sinh oanh liệt trong cuộc chiến đấu vì nền độc lập tự chủ của dân tộc.
Về mối quan hệ giữa Phạm Tu và Lý Phục Man, đến nay vẫn còn tồn tại ba quan niệm: thứ nhất, cho Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là một người; thứ hai, khẳng định đó là hai nhân vật lịch sử riêng biệt; thứ ba, còn hoài nghi chưa kết luận.
Các nhà nghiên cứu khẳng định Phạm Tu không phải Lý Phục Man đưa ra nhiều lập luận:
1-Phạm Tu là một lão tướng, là quan Tể tướng của triều đình Vạn Xuân, người đứng đầu Ban Võ, thì không thể có chuyện được cử đi trấn trị ở các vùng Đường Lâm và Đỗ Động trong khi đó vùng trọng yếu hơn vẫn là biên thùy phía Bắc? Do vậy, đứng đầu đất Đỗ Động và Đường Lâm hẳn là Lý Phục Man, chứ không phải là Phạm Tu.
2-Nói rằng Lý Nam Đế gả công chúa Phương Dung (tức Lý Nương) cho Phạm Tu là không đúng. Bởi vì, Phạm Tu sinh năm 476, Lý Bí sinh năm 498, nghĩa là Phạm Tu nhiều hơn 22 tuổi. Lý Nam Đế gả công chúa cho Phạm Tu sớm nhất là năm 542, lúc đó Phạm Tu đã 67 tuổi rồi. Một công chúa trẻ không thể gả cho một lão tướng đáng tuổi cha của nhà vua và đáng tuổi ông của công chúa. Vị phò mã đó chắc phải là Lý Phục Man, người thuộc thế hệ sau Phạm Tu, mới đúng.
3-Nói vua Lý Nam Đế ban quốc tính (họ Lý) cho Phạm Tu cũng chưa hẳn đúng, bởi vì, lúc đó còn có hai vị đại công thần khác là Thái phó Triệu Túc và người đứng đầu Ban Văn là Tinh Thiều, tại sao không được vua ban quốc tính? Chẳng lẽ lúc ấy Lý Nam Đế lại thiên vị Phạm Tu? Trong khi đó, từ khi Lý Bí khởi nghĩa (541) đến lúc ông mất (548) là 7 năm, mà Phạm Tu là một lão tướng còn phò mã Lý Phục Man là một tướng trẻ tuổi, cho nên không thể coi hai người là một? Xét theo tuổi tác thì hai ông thuộc hai thế hệ khác nhau và đó là hai người khác nhau. Lý Phục Man luôn ở bên cạnh Lý Nam Đế và cùng mất năn 548 ở động Khuất Lão.
Cũng có nhà nghiên cứu căn cứ vào sách Thiên Nam ngữ lục, cho rằng Phạm Tu và Lý Phục Man là hai vị tướng khác nhau cùng tham gia đánh Lâm Ấp; hoặc Phạm Tu đánh tan quân Lâm Ấp, rồi sau đó Lý Bí mới cử Lý Phục Man vào trấn giữ vùng biên thùy phía Nam, chứ không phải coi giữ ở Đường Lâm và Đỗ Động như một số tài liệu nói; thêm nữa, hai ông lại có quê hương khác nhau, một người ở Thanh Đàm (Thanh Liệt), một người ở Cổ Sở (Hoài Đức)…
Từ những lập luận như vậy, họ khẳng định Phạm Tu và Lý Phục Man là hai nhân vật lịch sử khác biệt; Phạm Tu sinh năm 476 và mất năm 545, còn Lý phục Man mất năm 548, chưa rõ năm sinh.
Chúng ta trân trọng những ý kiến nói trên. Tuy nhiên, những lập luận như vậy, theo tôi, mới chỉ là suy đoán, chưa có chứng cứ khoa học, không dựa vào chính sử và do đó chưa thực sự thuyết phục.
Sau khi nghiên cứu các nguồn sử liệu và các bài viết, tác giả bài viết này (LĐS) cho rằng, quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn, bởi những chứng cứ như sau:
Một là, chính sử của ta, các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,… khi viết về khởi nghĩa Lý Bí đều không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép về Phạm Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức (Hà Tĩnh, năm 543). Cuốn dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), cũng như văn bía ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (năm 1728) và nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục Man. Chúng ta đều biết, Lý Bí-Lý Nam Đế ở ngôi 7 năm, từ 541 đến 547, trong 7 năm đó chỉ thấy chép một lần đánh quân Lâm Ấp, tức năm 543. Do đó, so sánh hai nguồn tư liệu nói trên thì Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Hai là, sách Đại Việt sử ký toàn thư và sách Việt sử thông giám cương mục đều chép: “Mùa Xuân, tháng Giêng, năm Thiên Đức năm thứ nhất (544), vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng võ.”(1) trong triều đình nhà nước Vạn Xuân thời ấy có hai ban văn và võ, Tinh Thiều đứng đầu Ban Văn, Phạm Tu đứng đầu Ban Võ. Sách Việt điện u linh lại chép: Lý Phục Man được phong chức Thái úy, đứng đầu các quan trong Ban Võ. Chức Thái úy theo quan chế thời xưa là một trong ba chức quan trọng nhất của Tam Thái: Thái sư, Thái bảo và Thái úy. Thái úy là chức quan đứng đầu hàng võ. Như vậy, cả chính sử và dã sử đều thống nhất nói về một chức quan võ; và người đứng đầu hàng ngũ võ quan trong triều ấy chính là Phạm Tu hay Lý Phục Man; cả hai tên cũng chỉ là một người mà thôi.
Ba là, chính sử chép, Lý Bí đặt trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Như thế, trong ba người giữ vai trò chủ chốt nhất giúp Lý Nam Đế trên ba lĩnh vực quan trọng khi mới dựng nghiệp thì chỉ có một vị quan võ là Phạm Tu. Điều này chứng tỏ, Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là tên gọi khác nhau của một người. Cái tên Lý Phục Man được lý giải là do Phạm Tu có công lớn nên được vua ban quốc tính (họ Lý) và danh hiệu là Phục Man; được vua gả công chúa, chọn làm phò mã. Khi Phạm Tu làm quan trấn ải biên cương thì mang tên Đỗ Động tướng quân; và có lẽ cũng từ đó cái “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ. Phục Man tướng quân là tướng giỏi chinh phục quân Man, ở đây là chỉ quân Lâm Ấp và những lực lượng cát cứ chống đối. Chính sử chỉ chép tên Phạm Tu, không nói đến Lý Phục Man. Tên gọi Lý Phục Man chỉ được phản ánh trong dã sử, trong chuyện kể dân gian, trong thần tích, truyền thuyết. Cuốn dã sử Việt điện u linh là thư tịch cổ duy nhất, đầu tiên cho biết những thông tin về Lý Phục Man. Vì Phạm Tu quá lừng danh về tài đức nên được nhân dân ngưỡng mộ, thần thánh hóa, cho hóa thần và ứng nghiệm linh thiêng trong việc phò vua giúp nước những triều đại sau. Nhiều văn bia, thần tích xuất hiện từ sau thế kỷ XVII trờ đi đều căn cứ vào văn bản Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư mà thay đổi chút ít, để biên soạn thần tích cho phù hợp nơi thờ, chỗ dựng bia Thánh Giá thờ phụng Lý Phục Man; Dẫu vậy, hành trạng công tích mà nhân vật lịch sử từ khi còn mang tính danh Phạm Tu cho đến lúc được vua ban tước hiệu Phục Man và họ Lý của vua, gắn liền với các sự kiện đều thống nhất ở một con người, một triều đại Tiền Lý, được người đời tôn vinh.
Bốn là, tuy chính sử không chép về cái chết của Phạm Tu và Lý Phục Man, nhưng truyền thuyết làng Giá và nhiều nơi thờ Lý Phục Man hy sinh trong trận đánh quân Lương ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545), thần tích ở làng Thanh Liệt cũng phản ánh cái chết của Phạm Tu như vậy. Đây cũng là sự trùng hợp thú vị để góp phần khẳng định Phạm Tu cũng là Lý Phục Man, hai người chỉ là một. Như thế, danh tướng Phạm Tu hay danh tướng sau khi chết là danh thần Lý Phục Man chỉ cũng là một người.
Tóm lại, vấn đề Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người đã được giới sử học nêu ra từ lâu, nhưng do tư liệu quá ít và tản mạn, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm việc nhận diện Phạm Tu, do vậy cũng đã và đang gặp khó khăn. Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu các nguồn sử liệu, phân tích so sánh các ý kiến khác nhau, chúng tôi cho rằng: đã đến lúc chúng ta nên nhìn nhận Phạm Tu và Lý Phục Man là một nhân vật lịch sử. Đó là vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân người có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, đuổi quân đô hộ phương Bắc, giải phóng đất nước, lập nên nhà nước Vạn Xuân độc lập người góp công tham mưu cho Lý Nam Đế xây dựng kinh đô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng long, xây dựng chiến thành chống ngoại xâm ở cửa sông Tô Lịch; ông cũng là vị anh hùng đầu tiên cầm quân đánh tan giặc Lâm Ấp, giữ yên bờ cõi biên thùy phía Nam và chính ông đã chiến đấu và hy sinh oanh liệt vì sự nghiệp bảo vệ kinh thành, bảo vệ đất nước. Nghiên cứu nhận diện chính xác nhân vật lịch sử Phạm Tu cũng nhằm góp phần tôn vinh công lao và sự nghiệp của người anh hùng vĩ đại này.
Lê Đình Sỹ
Đại tá, PGS, TS, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1993, tr. 179.
Theo Tạp chí Lịch sử quân sự số 235 (7/2011) tr. 72-74
Về mối quan hệ giữa Phạm Tu và Lý Phục Man, đến nay vẫn còn tồn tại ba quan niệm: thứ nhất, cho Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là một người; thứ hai, khẳng định đó là hai nhân vật lịch sử riêng biệt; thứ ba, còn hoài nghi chưa kết luận.
Các nhà nghiên cứu khẳng định Phạm Tu không phải Lý Phục Man đưa ra nhiều lập luận:
1-Phạm Tu là một lão tướng, là quan Tể tướng của triều đình Vạn Xuân, người đứng đầu Ban Võ, thì không thể có chuyện được cử đi trấn trị ở các vùng Đường Lâm và Đỗ Động trong khi đó vùng trọng yếu hơn vẫn là biên thùy phía Bắc? Do vậy, đứng đầu đất Đỗ Động và Đường Lâm hẳn là Lý Phục Man, chứ không phải là Phạm Tu.
2-Nói rằng Lý Nam Đế gả công chúa Phương Dung (tức Lý Nương) cho Phạm Tu là không đúng. Bởi vì, Phạm Tu sinh năm 476, Lý Bí sinh năm 498, nghĩa là Phạm Tu nhiều hơn 22 tuổi. Lý Nam Đế gả công chúa cho Phạm Tu sớm nhất là năm 542, lúc đó Phạm Tu đã 67 tuổi rồi. Một công chúa trẻ không thể gả cho một lão tướng đáng tuổi cha của nhà vua và đáng tuổi ông của công chúa. Vị phò mã đó chắc phải là Lý Phục Man, người thuộc thế hệ sau Phạm Tu, mới đúng.
3-Nói vua Lý Nam Đế ban quốc tính (họ Lý) cho Phạm Tu cũng chưa hẳn đúng, bởi vì, lúc đó còn có hai vị đại công thần khác là Thái phó Triệu Túc và người đứng đầu Ban Văn là Tinh Thiều, tại sao không được vua ban quốc tính? Chẳng lẽ lúc ấy Lý Nam Đế lại thiên vị Phạm Tu? Trong khi đó, từ khi Lý Bí khởi nghĩa (541) đến lúc ông mất (548) là 7 năm, mà Phạm Tu là một lão tướng còn phò mã Lý Phục Man là một tướng trẻ tuổi, cho nên không thể coi hai người là một? Xét theo tuổi tác thì hai ông thuộc hai thế hệ khác nhau và đó là hai người khác nhau. Lý Phục Man luôn ở bên cạnh Lý Nam Đế và cùng mất năn 548 ở động Khuất Lão.
Cũng có nhà nghiên cứu căn cứ vào sách Thiên Nam ngữ lục, cho rằng Phạm Tu và Lý Phục Man là hai vị tướng khác nhau cùng tham gia đánh Lâm Ấp; hoặc Phạm Tu đánh tan quân Lâm Ấp, rồi sau đó Lý Bí mới cử Lý Phục Man vào trấn giữ vùng biên thùy phía Nam, chứ không phải coi giữ ở Đường Lâm và Đỗ Động như một số tài liệu nói; thêm nữa, hai ông lại có quê hương khác nhau, một người ở Thanh Đàm (Thanh Liệt), một người ở Cổ Sở (Hoài Đức)…
Từ những lập luận như vậy, họ khẳng định Phạm Tu và Lý Phục Man là hai nhân vật lịch sử khác biệt; Phạm Tu sinh năm 476 và mất năm 545, còn Lý phục Man mất năm 548, chưa rõ năm sinh.
Chúng ta trân trọng những ý kiến nói trên. Tuy nhiên, những lập luận như vậy, theo tôi, mới chỉ là suy đoán, chưa có chứng cứ khoa học, không dựa vào chính sử và do đó chưa thực sự thuyết phục.
Sau khi nghiên cứu các nguồn sử liệu và các bài viết, tác giả bài viết này (LĐS) cho rằng, quan niệm Phạm Tu và Lý Phục Man là cùng một nhân vật lịch sử thì hợp lý hơn, bởi những chứng cứ như sau:
Một là, chính sử của ta, các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,… khi viết về khởi nghĩa Lý Bí đều không chép về Lý Phục Man mà chỉ chép về Phạm Tu được Lý Bôn (Lý Bí) cử đi đánh và phá tan được giặc Lâm Ấp ở Cửu Đức (Hà Tĩnh, năm 543). Cuốn dã sử Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV), cũng như văn bía ở Quán Giá soạn năm Bảo Thái thứ 9 (năm 1728) và nhiều truyền thuyết cho rằng chiến công đánh tan quân Lâm Ấp thuộc về Lý Phục Man. Chúng ta đều biết, Lý Bí-Lý Nam Đế ở ngôi 7 năm, từ 541 đến 547, trong 7 năm đó chỉ thấy chép một lần đánh quân Lâm Ấp, tức năm 543. Do đó, so sánh hai nguồn tư liệu nói trên thì Phạm Tu chính là Lý Phục Man.
Hai là, sách Đại Việt sử ký toàn thư và sách Việt sử thông giám cương mục đều chép: “Mùa Xuân, tháng Giêng, năm Thiên Đức năm thứ nhất (544), vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng võ.”(1) trong triều đình nhà nước Vạn Xuân thời ấy có hai ban văn và võ, Tinh Thiều đứng đầu Ban Văn, Phạm Tu đứng đầu Ban Võ. Sách Việt điện u linh lại chép: Lý Phục Man được phong chức Thái úy, đứng đầu các quan trong Ban Võ. Chức Thái úy theo quan chế thời xưa là một trong ba chức quan trọng nhất của Tam Thái: Thái sư, Thái bảo và Thái úy. Thái úy là chức quan đứng đầu hàng võ. Như vậy, cả chính sử và dã sử đều thống nhất nói về một chức quan võ; và người đứng đầu hàng ngũ võ quan trong triều ấy chính là Phạm Tu hay Lý Phục Man; cả hai tên cũng chỉ là một người mà thôi.
Ba là, chính sử chép, Lý Bí đặt trăm quan, lấy Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Như thế, trong ba người giữ vai trò chủ chốt nhất giúp Lý Nam Đế trên ba lĩnh vực quan trọng khi mới dựng nghiệp thì chỉ có một vị quan võ là Phạm Tu. Điều này chứng tỏ, Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là tên gọi khác nhau của một người. Cái tên Lý Phục Man được lý giải là do Phạm Tu có công lớn nên được vua ban quốc tính (họ Lý) và danh hiệu là Phục Man; được vua gả công chúa, chọn làm phò mã. Khi Phạm Tu làm quan trấn ải biên cương thì mang tên Đỗ Động tướng quân; và có lẽ cũng từ đó cái “tục danh” Phạm Tu dần lui vào quá khứ. Phục Man tướng quân là tướng giỏi chinh phục quân Man, ở đây là chỉ quân Lâm Ấp và những lực lượng cát cứ chống đối. Chính sử chỉ chép tên Phạm Tu, không nói đến Lý Phục Man. Tên gọi Lý Phục Man chỉ được phản ánh trong dã sử, trong chuyện kể dân gian, trong thần tích, truyền thuyết. Cuốn dã sử Việt điện u linh là thư tịch cổ duy nhất, đầu tiên cho biết những thông tin về Lý Phục Man. Vì Phạm Tu quá lừng danh về tài đức nên được nhân dân ngưỡng mộ, thần thánh hóa, cho hóa thần và ứng nghiệm linh thiêng trong việc phò vua giúp nước những triều đại sau. Nhiều văn bia, thần tích xuất hiện từ sau thế kỷ XVII trờ đi đều căn cứ vào văn bản Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư mà thay đổi chút ít, để biên soạn thần tích cho phù hợp nơi thờ, chỗ dựng bia Thánh Giá thờ phụng Lý Phục Man; Dẫu vậy, hành trạng công tích mà nhân vật lịch sử từ khi còn mang tính danh Phạm Tu cho đến lúc được vua ban tước hiệu Phục Man và họ Lý của vua, gắn liền với các sự kiện đều thống nhất ở một con người, một triều đại Tiền Lý, được người đời tôn vinh.
Bốn là, tuy chính sử không chép về cái chết của Phạm Tu và Lý Phục Man, nhưng truyền thuyết làng Giá và nhiều nơi thờ Lý Phục Man hy sinh trong trận đánh quân Lương ở cửa sông Tô Lịch ngày 20 tháng 7 Ất Sửu (545), thần tích ở làng Thanh Liệt cũng phản ánh cái chết của Phạm Tu như vậy. Đây cũng là sự trùng hợp thú vị để góp phần khẳng định Phạm Tu cũng là Lý Phục Man, hai người chỉ là một. Như thế, danh tướng Phạm Tu hay danh tướng sau khi chết là danh thần Lý Phục Man chỉ cũng là một người.
Tóm lại, vấn đề Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người đã được giới sử học nêu ra từ lâu, nhưng do tư liệu quá ít và tản mạn, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm việc nhận diện Phạm Tu, do vậy cũng đã và đang gặp khó khăn. Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu các nguồn sử liệu, phân tích so sánh các ý kiến khác nhau, chúng tôi cho rằng: đã đến lúc chúng ta nên nhìn nhận Phạm Tu và Lý Phục Man là một nhân vật lịch sử. Đó là vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân người có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, đuổi quân đô hộ phương Bắc, giải phóng đất nước, lập nên nhà nước Vạn Xuân độc lập người góp công tham mưu cho Lý Nam Đế xây dựng kinh đô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng long, xây dựng chiến thành chống ngoại xâm ở cửa sông Tô Lịch; ông cũng là vị anh hùng đầu tiên cầm quân đánh tan giặc Lâm Ấp, giữ yên bờ cõi biên thùy phía Nam và chính ông đã chiến đấu và hy sinh oanh liệt vì sự nghiệp bảo vệ kinh thành, bảo vệ đất nước. Nghiên cứu nhận diện chính xác nhân vật lịch sử Phạm Tu cũng nhằm góp phần tôn vinh công lao và sự nghiệp của người anh hùng vĩ đại này.
Lê Đình Sỹ
Đại tá, PGS, TS, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1993, tr. 179.
Theo Tạp chí Lịch sử quân sự số 235 (7/2011) tr. 72-74
10.7.11
Kính tặng bạn đọc toàn bộ nội dung nghiên cứu
Nhân dịp kỷ niệm 1464 năm ngày hy sinh của Đô Hồ Đại vương Phạm Tu, tôi vào Đình Ngoại với mong muốn hiểu sâu hơn về vị Tổng chỉ huy đầu tiên của quân đội nước Việt có bộ máy chính quyền. Khi tìm tư liệu trên mạng về Người, thấy có một số blog mới nêu trở lại việc đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu, đây là vấn đề quan tâm của nhiều nhà khoa học. Do vậy, đi tìm cơ sở đồng nhất hai nhân vật này là một vấn đề khoa học không hề giản đơn mà lại rất cần sớm làm rõ.
Là người họ Phạm không rõ có phải là hậu duệ của danh tướng Phạm Tu hay không nhưng với tinh thần hướng về nguồn cội, chúng tôi mong sớm tìm ra câu trả lời đúng đắn của việc đồng nhất. Với người họ Phạm thì dù quê gốc của danh nhân Phạm Tu có ở Thanh Trì hay Hoài Đức, ông vẫn là danh nhân lớn của đất nước và đã được tôn vinh là một trong các Thượng Thủy tổ của họ Phạm Việt Nam. Xác định đúng quê hương bản quán của Lão tướng Phạm Tu chính là việc làm cụ thể để tri ân Tổ tiên tìm về đúng nguồn cội.
Chúng tôi luôn hướng tới để tìm sự thật của vấn đề lịch sử này. Bạn đọc có thông tin liên quan có thể tìm ra cơ sở khoa học, mong hãy chia sẻ với chúng tôi.
Chúng tôi tặng quý vị một số cuốn sách điện tử:
1. Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
2. Bài tổng kết: Phạm Tu không phải Lý Phục Man
3. Danh mục các dòng họ và nhân vật họ Phạm Việt Nam
8.6.11
VẤN ĐỀ ĐỒNG NHẤT: PHẠM TU LÀ LÝ PHỤC MAN?
Nhân dịp khánh thành công trình tu bổ tôn tạo Đình Ngoại, nơi thờ Đại Thành hoàng của Thăng Long-Hà Nội (có thể gọi là Quốc đô Thành hoàng) và còn đâu đây không khí hào hùng của Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, chúng ta nhắc đến mảnh đất địa linh nhân kiệt núi Nùng sông Tô với một nhân vật lịch sử rất tiêu biểu của Thăng Long-Hà Nội cách nay 15 thế kỷ. Danh nhân đó chính là “vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức”, lão tướng Phạm Tu (476-545)-một tấm gương trong của lịch sử Dân tộc. Thế nhưng ngày nay vai trò của ông với kinh đô, với nước Việt mới dần được làm rõ. Cản trở tiến trình tất yếu ấy chính là vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (gọi là Vấn đề đồng nhất) đã gây nên sự thiếu thống nhất trong giới khoa học.
Vào năm 1982, các nhà sử học trong và ngoài Quân đội cùng các cộng sự đã khảo sát kỹ lưỡng tại xã Thanh Liệt, Thanh Trì và xã Yên Sở, Hoài Đức. Ngày 25-12-1982, tại xã Yên Sở đã diễn ra hội thảo khoa học về Lý Phục Man. Trong Hội thảo có một số ý kiến cho rằng có thể đồng nhất hai nhân vật Phạm Tu và Lý Phục Man. Đây là vấn đề khoa học thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và cả trong giới bình dân. Như nhà sử học Lê Văn Lan đã nêu “là vấn đề sử học nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết” do vậy vấn đề khoa học này không hề giản đơn nhưng cũng cần sớm làm sáng tỏ.
Trước hết xin thống kê theo thời gian một số ấn phẩm tiêu biểu có nêu hoặc bàn về vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu:
Số 1. Sớm nhất phải kể đến cuốn Đình Yên Sở của Ty Văn hóa-thông tin Hà Tây năm 1968.
Số 2. Bài báo đầu tiên thể hiện vấn đề đồng nhất có tên “Phạm Tu với nhà nước Vạn Xuân” của Đàm Hưng đăng trên trang 2 báo Hà Nội mới ngày 11-9-1983: Trong bài báo nêu rõ thân thế sự nghiệp của Phạm Tu cơ bản theo thần tích Đình Ngoại, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội và khẳng định quê ông ở đây. Nhưng đoạn gần cuối có tư liệu không hợp lý vì tác giả sử dụng thông tin về Lý Phục Man ở Quán Giá (xã Yên Sở, Hoài Đức) để cho rằng: “...ông được Lý Nam Đế phong chức Phục Man tướng công và cho đổi họ. Vì thế dân gian gọi Phạm Tu là Lý Phục Man.”
Số 3. Tiếp đến là bài báo “Lý Phục Man có phải là Phạm Tu hay không?” của Nguyễn Khắc Đạm đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6-1983. Qua bài “Lý Phục Man-người con quang vinh của làng Giá” trong cuốn Danh nhân quê hương của Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình in năm 1976, có thể thấy tác giả là người đã nghiên cứu kỹ lưỡng tư liệu ở Quán Giá, từ đó ông hiểu biết sâu sắc về Lý Phục Man. Do vậy ngay sau xuất hiện bài số 2 (11-9-1983), tháng 12-1983 bài của ông đã đăng trên Tạp chí nghiên cứu chuyên ngành nói trên để nêu lên những căn cứ không thể đồng nhất hai nhân vật: sự xuất hiện trong cổ sử là hai người khác nhau, Phạm Tu tuổi cao không thể được Lý Nam Đế gả công chúa, quê quán khác nhau, tuổi tác khác nhau, ngày mất khác nhau, vị trí chỉ huy khác nhau-Lý Phục Man là tướng thuộc quyền của Phạm Tu, và sự xuất hiện trong một số tài liệu cổ Đại Nam nhất thống chí, Tiền Lý Nam Đế sự tích quốc âm. Những căn cứ này đã khẳng định Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người hoàn toàn khác nhau.
Số 4. Ngay sau xuất hiện bài của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm, ngày 25-12-1983 nhà sử học Phan Huy Lê đã viết xong bài nghiên cứu để rồi hơn một năm sau đăng bài “Kẻ Giá – Một làng chiến đấu truyền thống tiêu biểu và người anh hùng Lý Phục Man” trên tạp chí Dân tộc học số 46, 2-1985, tác giả đã cẩn trọng so sánh tư liệu từ hai địa phương và kết luận: “Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu, các tư liệu trên có thể cho phép nghĩ rằng Lý Phục Man và Phạm Tu là một người. Nhưng tôi chưa coi đó là một kết luận khoa học vì quả thực tư liệu còn có chỗ mơ hồ và chưa xác minh được chắc chắn.”
Số 5. Đến năm 1991, việc đồng nhất xuất hiện trong sách dạng từ điển nên thường được sử dụng rộng rãi, đó là cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam chủ biên Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế của Nxb KHXH-Hà Nội. Với tư liệu cơ bản của Quán Giá nhưng nhân vật lịch sử ở làng này lại được thay tên là Phạm Tu.
Số 6. Cuốn Văn bia Quán Giá của chủ biên Nguyễn Bá Hân đồng thời là người biên tập, Nxb Thế giới in năm 1995. Sự tích tướng công Lý Phục Man được soạn lại theo thần phả, văn bia của Quán Giá và sử, trong đó khẳng định ngay từ câu đầu: “Lý Phục Man có họ tên thực là Phạm Tu”.
Số 7. Ngày 05-4-2009 đúng dịp ngày kỷ niệm 1463 năm ngày sinh danh tướng Phạm Tu (476-545), báo Quân đội nhân dân cuối tuần số 692 có đăng bài “Phạm Tu không phải Lý Phục Man” của Chí Nhân (Tháp Bút). Dù chưa được tiếp cận ba bài báo theo tài liệu số 2, 3, 4, nhưng theo nghiên cứu độc lập, bằng phương pháp phản chứng cũng thu được một số kết quả như trong công bố (Tài liệu số 3) của tác giả Nguyễn Khắc Đạm trước đó 25 năm.
Số 8. Cuốn Sự tích đức thánh Giá của tác giả Yên Sơn-Nguyễn Bá Hân, Nxb KHXH-Hà Nội in năm 2009. Nội dung trọng tâm viết về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man giống như Sự tích tướng công Lý Phục Man trong tài liệu số 6. Trong đó có một “bổ sung lý lịch” khá mới cho rằng: Ngài sinh … trong một gia đình họ Phạm, cha là Phạm Tông còn tên mẹ thì không được rõ.”
Số 9. Bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trong Thông báo Hán Nôm học 2009 của PGS. TS Trương Sỹ Hùng. Tác giả công bố một kết quả nghiên cứu công phu và cho rằng Lý Phục Man chính là Phạm Tu.
Tư liệu hiện nay về hai nhân vật khá phong phú, có thể xác định nguồn gốc từ địa phương là chủ yếu, còn thông tin từ chính sử rất hiếm hoi. Với sự độc lập của hai nguồn tư liệu về Phạm Tu ở Đình Ngoại và Lý Phục Man ở Quán Giá: Có thể dễ dàng xác định nguồn gốc tư liệu trong mỗi bài viết về hai nhân vật lịch sử này, nội dung nào sử dụng tư liệu từ Thanh Liệt, nội dung nào là tư liệu từ Yên Sở. Do vậy những nội dung thể hiện sự đồng nhất do sử dụng tư liệu chéo-lẫn lộn (viết về Phạm Tu bằng tư liệu ở Quán Giá hoặc viết về Lý Phục Man bằng tư liệu ở Đình Ngoại) là sự sai sót do cách làm tùy tiện khi khai thác tư liệu.
Bằng việc lọc tư liệu chéo theo cách gỡ “râu ông nọ” khỏi “cằm bà kia”, chúng ta đơn giản hóa bài toán nhưng không làm thay đổi kết quả, nghi vấn vẫn được bảo lưu để tiếp tục xem xét. Những sáng tác văn học không được dùng là cơ sở mà chỉ có thể coi là nghi vấn cần nghiên cứu giải quyết dựa theo nguồn sử liệu tin cậy. Với những tài liệu cổ, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm đã phân tích từ năm 1983 có thể khẳng định không thể đồng nhất dựa trên các tư liệu này (xem tài liệu số 3: “Lý Phục Man có phải là Phạm Tu hay không?”). Sau đây chúng ta lần lượt xem xét các tư liệu khác xếp theo mức độ tin cậy.
1. Trong chính sử
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư - bộ chính sử lớn của nước ta đã ghi:
«Mùa hạ, tháng 4 năm Quý Hợi (543) vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh tan giặc ở quận Cửu Đức.»
và:
«Mùa Xuân, tháng Giêng năm Giáp Tý (544), vua lên ngôi, xưng là Nam Việt Đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân là ý mong xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái Phó, lấy Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng võ.»
Đó là việc chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: vào năm 1016, trong giấc mộng của Lý Thái Tổ cũng ghi rất cẩn thận ở cuốn Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng:
«Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng”.»
Đọc nội dung trên thấy có điểm chung hai nhân vật này đều là võ tướng thời Lý Nam Đế.
2. Văn bia ở Quán Giá
Tư liệu rất quan trọng tại Quán Giá, đền thờ của Lý Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm 1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự Đức (năm 1855). Không thể tìm ra một chữ nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết “còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần.”
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in năm 1995 cho thấy:
Trang 173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức, với nội dung liên quan:
«…Thần quyền Thống lĩnh các chư tướng đem quân đi đánh. Thần đã đại phá quân Lâm ấp ở Cửu Đức(1)…
…Vì tướng công đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man (tức là người dẹp
________
(1) Trong Toàn thư ghi đúng tên là Phạm Tu đánh quân Lâm Ấp ở Cửu Đức.
173»
Xem trang cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu Úy tham nghị mộ phủ Nghị thị bách liêu)
« yên quân man rợ) cho thần được đổi họ theo nhà vua là họ Lý; lại gả công chúa cho Thần và phong làm Thiếu Úy(1) tham nghị việc triều chính, đứng đầu các quan(2)
…
________
(1) Trong hai bia trước là Vĩnh Tộ (1620) và Cảnh Trị (1670) đều ghi là Thái Úy nhưng đây lại ghi là Thiếu Úy có lẽ xưa không phân biệt Thái và Thiếu.
(2) Theo Toàn thư thì Thần đứng đầu hàng võ.
174 »
Như vậy đọc phần dịch nghĩa bia Bảo Thái (năm 1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất không có cơ sở.
3. Theo nghiên cứu của học giả Nguyễn Văn Huyên
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên (1908-1975) là một nhà nghiên cứu văn hóa lớn của Việt Nam. Ông là người quê Kim Chung, Hoài Đức ở cách Quán Giá không xa, trong cuốn Hồi ức Nguyễn Văn Huyên, con gái ông đã viết:
«Nhưng có thể nói rằng đối với ngành dân tộc học Việt nam thì ông là người đầu tiên sử dụng các phương pháp khoa học hiện đại cho việc điền dã đó thì chính xác hơn. Các phương pháp ấy thể hiện rất rõ ngay từ trong chuẩn bị luận án tiến sĩ của ông về “Hát đối nam nữ” và “Nhà sàn Đông Nam Á”, cũng như trong tất cả các đề tài về sau này....
Đó chính là những phương pháp khoa học hiện đại đầu tiên mà ông đưa vào hai công trình nghiên cứu đó. Những cái đó là hoàn toàn mới, mang một hơi thở mới vào trong nghiên cứu văn hoá, lịch sử Việt nam. Sau khi về nước ông tiếp tục triển khai và sử dụng các phương pháp đó bây giờ ta gọi là phương pháp quan sát trực tiếp và tham dự. Thí dụ như khi ông viết về hội Gióng hay hội Lý Phục Man thì ông phải ở đấy cả tháng. Ở hội Lý Phục Man, ông ở tại đây 15 ngày, quan sát xem xét, tham gia và thực hiện ghi chép rất tỉ mỉ. Hiện nay ở nhà vẫn còn giữ được mấy quyển ghi chép của ông rất hay mà sau này nó được thể hiện trên các bài báo của ông.»
GS Trần Quốc Vượng đánh giá: “Ông là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ 20 này”... “Giới nghiên cứu trẻ/già hôm nay còn được học và phải học ở ông nhiều về phương pháp luận và các phương pháp tiếp cận những sự kiện nhân văn, vừa cụ thể vừa tổng thể.” (Theo cuốn Trần Quốc Vượng, trang 945).
Ngay từ năm 1938, ông đã công bố công trình nghiên cứu có giá trị “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man”. Trong tác phẩm này có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất.”
Công trình của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng Lý Phục Man và di tích Quán Giá . Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất:
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Lưu ý: Không có sự việc Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi mất (năm 548).
- Ở Bắc bộ có đến hàng chục nơi thờ Lý Phục Man và qua các triều vua đã phong tặng cho Lý Phục Man đến hơn năm chục tên gọi (mỹ tự) mà hoàn toàn không thấy tên gọi Đô Hồ Đại vương hoặc Long Biên hầu như của Phạm Tu.
- Toàn bộ tác phẩm gần 200 trang, không thấy GS Nguyễn Văn Huyên nêu tên tướng quân Phạm Tu và hoàn toàn cũng không nêu việc đồng nhất Lý Phục Man với bất cứ một nhân vật lịch sử nào ở thời Lý Nam Đế.
- Về phu nhân của Lý Phục Man là công chúa Phương Dung, theo tác giả thì đây là “mong muốn” của người dân.
4. Đồng nhất, những điều khó lý giải từ tư liệu của Làng Giá
Nếu đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu, ta gọi chung là Tướng quân khi đó sẽ xuất hiện một số điều sau:
• Về tên gọi
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men, Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý khi đối chiếu với chính sử vì Thần đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man,”.
Như vậy Phục Man không phải là hiệu, mà chính lại là tên của Ngài?
Thần đã xưng tên Phục Man nên hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không phải khó nhọc tìm kiếm tên húy của Thần. Tên Thần và hiệu của Thần đã dùng chung là Phục Man. Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Tướng quân, kiêng tên gọi này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Tướng quân có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS. TS Trương Sỹ Hùng giải thích trong tài liệu số 9:
«Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ.»
• Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Ta xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man của Tướng quân lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí đến khi Tướng quân hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa hạ năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ có khoảng 2 năm. Vậy là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như tưởng tượng của ông Trương Sỹ Hùng là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh thời”. Điều này quá phi lý đối với “người con quang vinh của làng Giá”.
Ngẫm lại câu: “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán Giá!
• Phạm Tu có được ban quốc tính không?
Một lần nữa căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được ban quốc tính?
• Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của thần là tướng giữ vùng biên cảnh phía tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay) điều này lại được khẳng định: “Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ của nhà nước Vạn Xuân. Nếu Tướng quân được ghi trong chính sử là trưởng ban Võ, Tả tướng, đứng đầu quân đội mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía tây thì đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là sự phi lý cao độ bởi Thần khi sống “có tiếng là người trung liệt”, thác được “Thượng đế khen là trung thực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy khẳng định khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu giếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Dễ mắc tội khi quân lắm lắm!
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng, người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
• Về độ tuổi của Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa
Theo tư liệu Quán Giá thì Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba mươi tuổi. Như vậy có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571).
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của triều đình Vạn Xuân.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ trở thành thủ lĩnh có uy tín đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như Triệu Túc. Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
• Phạm Tông là cha của Lý Phục Man?
Từ năm 1728, ở văn bia ghi thần tích Quán Giá; tiếp đến năm 1938, mặc dù nghiên cứu kỹ lưỡng ông Nguyễn Văn Huyên cũng không tìm ra tên họ thật của Lý Phục Man. Vậy mà trong cuốn Sự tích đức thánh Giá in năm 2009, ở trang 17 có đoạn: “Ngài sinh ngày mồng 10 tháng 3 của thập kỷ đầu thế kỷ thứ 6 sau công nguyên (khoảng từ năm 505 - 515) trong một gia đình họ Phạm, cha là Phạm Tông còn tên mẹ thì không được rõ.” Như thế cha của Lý Phục Man là Phạm Tông? Sự việc đồng nhất sẽ rõ ràng khi chúng ta tìm hiểu tên gọi “Phạm Tông” của cụ thân sinh Lý Phục Man xuất hiện như thế nào?
5. Ý kiến của một số nhà khoa học
Theo GS Lê Văn Lan: "... có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết."
Cuốn thông sử Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, do Đỗ Văn Ninh chủ biên (2001) thận trọng chú thích: “Lý Phục Man là một nhân vật chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc. Có người cho rằng Lý Phục Man với Phạm Tu là một. Vấn đề này cần được chứng minh.”
Cuốn Lịch sử quân sự Việt Nam, chủ biên GS Trần Quốc Vượng và Lê Đình Sỹ, Nxb Chính trị Quốc gia in năm 2001 ở tập II có ghi: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu, nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận.” Như vậy không khẳng định được việc đồng nhất hai nhân vật.
PGS. TS Bùi Xuân Đính hiện là Viện trưởng Viện Dân tộc cũng đã đề cập đến vấn đề đồng nhất khi viết về Lý Phục Man:
“Tên chính của ông là Phạm Tu-một võ tướng, một trụ cột của triều đình Lý Nam Đế. Ý kiến này hiện vẫn chưa được giới khoa học khẳng định một cách chắc chắn”. Đó là ý kiến trong Hành trình về làng Việt cổ của PGS. TS Bùi Xuân Đính nhưng khi ông khi viết về làng Thanh Liệt lại ghi: "Thế kỷ thứ VI, làng Thanh Liệt sản sinh một người con trở thành vị tướng tài là Phạm Tu (476-548)".
Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn Thăng Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm của PGS. TS Lê Đình Sỹ, có nhận xét của PGS. TS Viện trưởng Viện Sử học Nguyễn Văn Nhật là: Một số khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu, là một người hay 2 người (Tr. 47, 48), …. Đặc biệt là ý kiến của GS Phan Huy Lê kết luận: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.” Thế nhưng cuốn sách đã in mà sai sót không được sửa chữa. Ví dụ: “Khi nhà Lương phái quân đánh Vạn Xuân, Phạm Tu chỉ huy quân đội chiến đấu và hy sinh anh dũng. Thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã, an táng tại quê hương.” hay “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu,…”.
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc không tán thành quan điểm đồng nhất hai nhân vật này. Theo ông, danh nhân Phạm Tu ghi trong sử sách, thần Lý Phục Man được nhân dân tôn thờ đều là những nhân vật rạng rỡ với Đất nước, rất xứng đáng. Không phải gượng ép đồng nhất để mong muốn đề cao một người, đó là điều không cần thiết.
Đã có lúc GS Lê Văn Lan bảo vệ quan điểm đồng nhất từ làng Giá, nhưng mới đây, trên trang 29 tạp chí Người Hà Nội số 96 (ngày 29-10-2010) trong bài “Lý Nam Đế xây đài Vạn Xuân” tác giả đã viết:
«Khởi đầu là việc dựng cờ khởi nghĩa vào năm 542, chống lại nhà Lương ở phương Bắc sang đô hộ nước Việt. Đó là cuộc khởi nghĩa toàn dân, có được rất nhiều anh tài, dũng sĩ khắp nơi theo về ủng hộ. Văn thì có Tinh Thiều, Triệu Túc. Võ thì có Phạm Tu, Lý Phục Man. Và những nào là Lý Hùng, Lý Thiên Bảo, đặc biệt là Triệu Quang Phục (chính là con trai của Triệu Túc, sau này sẽ kế nghiệp Lý Bí mà trở thành thủ lĩnh: Triệu Việt Vương).»
Như vậy cũng dần thấy sự thống nhất từ quá trình phát triển ba mươi năm qua của sự việc: quan điểm đồng nhất là thiểu số (đại diện có: PGS. TS Lê Đình Sỹ, PGS. TS Trương Sỹ Hùng, ông Nguyễn Bá Hân, ông Nguyễn Thế Dũng ở làng Giá) và không có cơ sở khoa học.
Kết luận
Qua khảo sát các tài liệu lưu hành 50 năm trở lại đây, ở các tài liệu có trước năm 1980, đặc biệt quan trọng là ba tấm văn bia cổ ghi sự tích của Quán Giá không có một chỗ nào đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu. Đáng chú ý là sử của Việt Nam và Trung Quốc cùng hệ thống sách giáo khoa đã không đồng nhất hai nhân vật này. Đến nay có thể khẳng định: tài liệu hiện có về Lý Phục Man phát hành trước năm 1980 không có cơ sở cho ông là Phạm Tu người đứng đầu ban Võ nhà nước Vạn Xuân. Tài liệu về Phạm Tu cũng không thể chứng minh ông là Lý Phục Man. Trong khi thông tin về tiểu sử hai nhân vật cũng là riêng biệt mà không thể đồng nhất được: đó là quê hương, tên họ hai vị thân sinh và năm sinh của từng nhân vật. Về tư liệu, có nhiều mâu thuẫn, thiếu cơ sở nên không thể đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu.
Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng của Lý Thái Tổ (sau gần năm trăm năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Hãy để quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội. Không có cơ sở đồng nhất, hãy sử dụng tư liệu về từng nhân vật riêng biệt, không nên lẫn lộn để làm phức tạp vấn đề.
Từ Đường Lâm đến Long Biên, ngày 05-6-2011
Vào năm 1982, các nhà sử học trong và ngoài Quân đội cùng các cộng sự đã khảo sát kỹ lưỡng tại xã Thanh Liệt, Thanh Trì và xã Yên Sở, Hoài Đức. Ngày 25-12-1982, tại xã Yên Sở đã diễn ra hội thảo khoa học về Lý Phục Man. Trong Hội thảo có một số ý kiến cho rằng có thể đồng nhất hai nhân vật Phạm Tu và Lý Phục Man. Đây là vấn đề khoa học thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và cả trong giới bình dân. Như nhà sử học Lê Văn Lan đã nêu “là vấn đề sử học nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết” do vậy vấn đề khoa học này không hề giản đơn nhưng cũng cần sớm làm sáng tỏ.
Trước hết xin thống kê theo thời gian một số ấn phẩm tiêu biểu có nêu hoặc bàn về vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu:
Số 1. Sớm nhất phải kể đến cuốn Đình Yên Sở của Ty Văn hóa-thông tin Hà Tây năm 1968.
Số 2. Bài báo đầu tiên thể hiện vấn đề đồng nhất có tên “Phạm Tu với nhà nước Vạn Xuân” của Đàm Hưng đăng trên trang 2 báo Hà Nội mới ngày 11-9-1983: Trong bài báo nêu rõ thân thế sự nghiệp của Phạm Tu cơ bản theo thần tích Đình Ngoại, xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội và khẳng định quê ông ở đây. Nhưng đoạn gần cuối có tư liệu không hợp lý vì tác giả sử dụng thông tin về Lý Phục Man ở Quán Giá (xã Yên Sở, Hoài Đức) để cho rằng: “...ông được Lý Nam Đế phong chức Phục Man tướng công và cho đổi họ. Vì thế dân gian gọi Phạm Tu là Lý Phục Man.”
Số 3. Tiếp đến là bài báo “Lý Phục Man có phải là Phạm Tu hay không?” của Nguyễn Khắc Đạm đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6-1983. Qua bài “Lý Phục Man-người con quang vinh của làng Giá” trong cuốn Danh nhân quê hương của Ty Văn hóa thông tin Hà Sơn Bình in năm 1976, có thể thấy tác giả là người đã nghiên cứu kỹ lưỡng tư liệu ở Quán Giá, từ đó ông hiểu biết sâu sắc về Lý Phục Man. Do vậy ngay sau xuất hiện bài số 2 (11-9-1983), tháng 12-1983 bài của ông đã đăng trên Tạp chí nghiên cứu chuyên ngành nói trên để nêu lên những căn cứ không thể đồng nhất hai nhân vật: sự xuất hiện trong cổ sử là hai người khác nhau, Phạm Tu tuổi cao không thể được Lý Nam Đế gả công chúa, quê quán khác nhau, tuổi tác khác nhau, ngày mất khác nhau, vị trí chỉ huy khác nhau-Lý Phục Man là tướng thuộc quyền của Phạm Tu, và sự xuất hiện trong một số tài liệu cổ Đại Nam nhất thống chí, Tiền Lý Nam Đế sự tích quốc âm. Những căn cứ này đã khẳng định Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người hoàn toàn khác nhau.
Số 4. Ngay sau xuất hiện bài của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm, ngày 25-12-1983 nhà sử học Phan Huy Lê đã viết xong bài nghiên cứu để rồi hơn một năm sau đăng bài “Kẻ Giá – Một làng chiến đấu truyền thống tiêu biểu và người anh hùng Lý Phục Man” trên tạp chí Dân tộc học số 46, 2-1985, tác giả đã cẩn trọng so sánh tư liệu từ hai địa phương và kết luận: “Bằng phương pháp so sánh, đối chiếu, các tư liệu trên có thể cho phép nghĩ rằng Lý Phục Man và Phạm Tu là một người. Nhưng tôi chưa coi đó là một kết luận khoa học vì quả thực tư liệu còn có chỗ mơ hồ và chưa xác minh được chắc chắn.”
Số 5. Đến năm 1991, việc đồng nhất xuất hiện trong sách dạng từ điển nên thường được sử dụng rộng rãi, đó là cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam chủ biên Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế của Nxb KHXH-Hà Nội. Với tư liệu cơ bản của Quán Giá nhưng nhân vật lịch sử ở làng này lại được thay tên là Phạm Tu.
Số 6. Cuốn Văn bia Quán Giá của chủ biên Nguyễn Bá Hân đồng thời là người biên tập, Nxb Thế giới in năm 1995. Sự tích tướng công Lý Phục Man được soạn lại theo thần phả, văn bia của Quán Giá và sử, trong đó khẳng định ngay từ câu đầu: “Lý Phục Man có họ tên thực là Phạm Tu”.
Số 7. Ngày 05-4-2009 đúng dịp ngày kỷ niệm 1463 năm ngày sinh danh tướng Phạm Tu (476-545), báo Quân đội nhân dân cuối tuần số 692 có đăng bài “Phạm Tu không phải Lý Phục Man” của Chí Nhân (Tháp Bút). Dù chưa được tiếp cận ba bài báo theo tài liệu số 2, 3, 4, nhưng theo nghiên cứu độc lập, bằng phương pháp phản chứng cũng thu được một số kết quả như trong công bố (Tài liệu số 3) của tác giả Nguyễn Khắc Đạm trước đó 25 năm.
Số 8. Cuốn Sự tích đức thánh Giá của tác giả Yên Sơn-Nguyễn Bá Hân, Nxb KHXH-Hà Nội in năm 2009. Nội dung trọng tâm viết về thân thế sự nghiệp của Lý Phục Man giống như Sự tích tướng công Lý Phục Man trong tài liệu số 6. Trong đó có một “bổ sung lý lịch” khá mới cho rằng: Ngài sinh … trong một gia đình họ Phạm, cha là Phạm Tông còn tên mẹ thì không được rõ.”
Số 9. Bài “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trong Thông báo Hán Nôm học 2009 của PGS. TS Trương Sỹ Hùng. Tác giả công bố một kết quả nghiên cứu công phu và cho rằng Lý Phục Man chính là Phạm Tu.
Tư liệu hiện nay về hai nhân vật khá phong phú, có thể xác định nguồn gốc từ địa phương là chủ yếu, còn thông tin từ chính sử rất hiếm hoi. Với sự độc lập của hai nguồn tư liệu về Phạm Tu ở Đình Ngoại và Lý Phục Man ở Quán Giá: Có thể dễ dàng xác định nguồn gốc tư liệu trong mỗi bài viết về hai nhân vật lịch sử này, nội dung nào sử dụng tư liệu từ Thanh Liệt, nội dung nào là tư liệu từ Yên Sở. Do vậy những nội dung thể hiện sự đồng nhất do sử dụng tư liệu chéo-lẫn lộn (viết về Phạm Tu bằng tư liệu ở Quán Giá hoặc viết về Lý Phục Man bằng tư liệu ở Đình Ngoại) là sự sai sót do cách làm tùy tiện khi khai thác tư liệu.
Bằng việc lọc tư liệu chéo theo cách gỡ “râu ông nọ” khỏi “cằm bà kia”, chúng ta đơn giản hóa bài toán nhưng không làm thay đổi kết quả, nghi vấn vẫn được bảo lưu để tiếp tục xem xét. Những sáng tác văn học không được dùng là cơ sở mà chỉ có thể coi là nghi vấn cần nghiên cứu giải quyết dựa theo nguồn sử liệu tin cậy. Với những tài liệu cổ, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Đạm đã phân tích từ năm 1983 có thể khẳng định không thể đồng nhất dựa trên các tư liệu này (xem tài liệu số 3: “Lý Phục Man có phải là Phạm Tu hay không?”). Sau đây chúng ta lần lượt xem xét các tư liệu khác xếp theo mức độ tin cậy.
1. Trong chính sử
Cuốn Đại Việt sử ký toàn thư - bộ chính sử lớn của nước ta đã ghi:
«Mùa hạ, tháng 4 năm Quý Hợi (543) vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh tan giặc ở quận Cửu Đức.»
và:
«Mùa Xuân, tháng Giêng năm Giáp Tý (544), vua lên ngôi, xưng là Nam Việt Đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức, đặt trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân là ý mong xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm Thái Phó, lấy Tinh Thiều, Phạm Tu làm tướng văn, tướng võ.»
Đó là việc chép về Phạm Tu ở giữa thế kỷ thứ VI. Danh tướng Phạm Tu là nhân vật lịch sử xuất hiện trong sự kiện cụ thể (có không gian, thời gian và địa điểm) với vị trí chỉ huy rõ ràng.
Còn về sự xuất hiện của thần Lý Phục Man: vào năm 1016, trong giấc mộng của Lý Thái Tổ cũng ghi rất cẩn thận ở cuốn Đại Việt sử ký toàn thư. Thông tin có thể đã lấy theo ghi chép của quan Ngự sử Lương Văn Nhậm cùng đi với Lý Thái Tổ và được nhà vua kể lại ngay sau giấc mộng:
«Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man, làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình. Đến khi chết, Thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi”. Rồi đó thung dung nói: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại phu Lương Văn Nhậm rằng: “Đó là ý thần muốn tạc tượng”.»
Đọc nội dung trên thấy có điểm chung hai nhân vật này đều là võ tướng thời Lý Nam Đế.
2. Văn bia ở Quán Giá
Tư liệu rất quan trọng tại Quán Giá, đền thờ của Lý Phục Man là 5 văn bia: Bia thời Vĩnh Tộ (năm 1620), bia thời Cảnh Trị (năm 1670), bia thời Bảo Thái (năm 1728), bia thời Gia Long (năm 1803), bia thời Tự Đức (năm 1855). Không thể tìm ra một chữ nào ở 5 văn bia nêu trên viết về Phạm Tu. PGS. TS Trương Sỹ Hùng đã viết “còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần.”
Qua cuốn Văn bia Quán Giá của Nguyễn Bá Hân in năm 1995 cho thấy:
Trang 173 có đoạn dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 152: Nãi tuyên chế sử Tổng Soái chư tướng vãng ngự chi Toại đại phá Lâm Ấp vu Cửu Đức, với nội dung liên quan:
«…Thần quyền Thống lĩnh các chư tướng đem quân đi đánh. Thần đã đại phá quân Lâm ấp ở Cửu Đức(1)…
…Vì tướng công đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man (tức là người dẹp
________
(1) Trong Toàn thư ghi đúng tên là Phạm Tu đánh quân Lâm Ấp ở Cửu Đức.
173»
Xem trang cuối trang 173, đầu trang 174 (dịch từ đoạn chữ Nho ở trang 153: Nãi dĩ kỳ đa phục man di chi công Tứ danh Phục Man Tứ tính Lý Thị Thượng công chúa Siêu thăng Thiếu Úy tham nghị mộ phủ Nghị thị bách liêu)
« yên quân man rợ) cho thần được đổi họ theo nhà vua là họ Lý; lại gả công chúa cho Thần và phong làm Thiếu Úy(1) tham nghị việc triều chính, đứng đầu các quan(2)
…
________
(1) Trong hai bia trước là Vĩnh Tộ (1620) và Cảnh Trị (1670) đều ghi là Thái Úy nhưng đây lại ghi là Thiếu Úy có lẽ xưa không phân biệt Thái và Thiếu.
(2) Theo Toàn thư thì Thần đứng đầu hàng võ.
174 »
Như vậy đọc phần dịch nghĩa bia Bảo Thái (năm 1728) xuất hiện chú thích đáng lưu ý của ông Nguyễn Bá Hân ở hai trang 173, 174. Qua hai chú thích này có thể thấy ông Nguyễn Bá Hân đã đồng nhất không có cơ sở.
3. Theo nghiên cứu của học giả Nguyễn Văn Huyên
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên (1908-1975) là một nhà nghiên cứu văn hóa lớn của Việt Nam. Ông là người quê Kim Chung, Hoài Đức ở cách Quán Giá không xa, trong cuốn Hồi ức Nguyễn Văn Huyên, con gái ông đã viết:
«Nhưng có thể nói rằng đối với ngành dân tộc học Việt nam thì ông là người đầu tiên sử dụng các phương pháp khoa học hiện đại cho việc điền dã đó thì chính xác hơn. Các phương pháp ấy thể hiện rất rõ ngay từ trong chuẩn bị luận án tiến sĩ của ông về “Hát đối nam nữ” và “Nhà sàn Đông Nam Á”, cũng như trong tất cả các đề tài về sau này....
Đó chính là những phương pháp khoa học hiện đại đầu tiên mà ông đưa vào hai công trình nghiên cứu đó. Những cái đó là hoàn toàn mới, mang một hơi thở mới vào trong nghiên cứu văn hoá, lịch sử Việt nam. Sau khi về nước ông tiếp tục triển khai và sử dụng các phương pháp đó bây giờ ta gọi là phương pháp quan sát trực tiếp và tham dự. Thí dụ như khi ông viết về hội Gióng hay hội Lý Phục Man thì ông phải ở đấy cả tháng. Ở hội Lý Phục Man, ông ở tại đây 15 ngày, quan sát xem xét, tham gia và thực hiện ghi chép rất tỉ mỉ. Hiện nay ở nhà vẫn còn giữ được mấy quyển ghi chép của ông rất hay mà sau này nó được thể hiện trên các bài báo của ông.»
GS Trần Quốc Vượng đánh giá: “Ông là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ 20 này”... “Giới nghiên cứu trẻ/già hôm nay còn được học và phải học ở ông nhiều về phương pháp luận và các phương pháp tiếp cận những sự kiện nhân văn, vừa cụ thể vừa tổng thể.” (Theo cuốn Trần Quốc Vượng, trang 945).
Ngay từ năm 1938, ông đã công bố công trình nghiên cứu có giá trị “Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man”. Trong tác phẩm này có đoạn viết: “Lý Phục Man chỉ là cái tên vua ban. Cả tên lẫn họ đều không phải tên họ của Tướng công lúc ra đời. Được gia ân mang tên họ mới và sau đấy người ta chỉ còn gọi biệt danh đến nỗi tên gốc hoàn toàn biến mất.”
Công trình của GS Nguyễn Văn Huyên là một nghiên cứu đầy đủ sáng tỏ nhất về vị thành hoàng Lý Phục Man và di tích Quán Giá . Qua tác phẩm này, cho thấy:
- Lý Phục Man là một nhân vật mang đậm tính truyền thuyết hơn là nhân vật lịch sử.
- Về cái chết của Lý Phục Man cũng không thống nhất:
+ Lý Phục Man thua quân Lâm Ấp nên tự sát.
+ Lý Phục Man bị thua ở Khuất Lạo nên tự sát (mất khoảng 546-548).
+ Lý Phục Man bị chém đầu nhưng vẫn cưỡi ngựa về làng.
Lưu ý: Không có sự việc Lý Phục Man hy sinh năm 545 ở chiến thành cửa sông Tô Lịch. Các văn bia, đại tự, câu đối ở Quán Giá không nói lên điều này, mà thường có chữ “thất tải” chỉ giai đoạn 541-548 Lý Phục Man là tướng của Lý Nam Đế đến khi mất (năm 548).
- Ở Bắc bộ có đến hàng chục nơi thờ Lý Phục Man và qua các triều vua đã phong tặng cho Lý Phục Man đến hơn năm chục tên gọi (mỹ tự) mà hoàn toàn không thấy tên gọi Đô Hồ Đại vương hoặc Long Biên hầu như của Phạm Tu.
- Toàn bộ tác phẩm gần 200 trang, không thấy GS Nguyễn Văn Huyên nêu tên tướng quân Phạm Tu và hoàn toàn cũng không nêu việc đồng nhất Lý Phục Man với bất cứ một nhân vật lịch sử nào ở thời Lý Nam Đế.
- Về phu nhân của Lý Phục Man là công chúa Phương Dung, theo tác giả thì đây là “mong muốn” của người dân.
4. Đồng nhất, những điều khó lý giải từ tư liệu của Làng Giá
Nếu đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu, ta gọi chung là Tướng quân khi đó sẽ xuất hiện một số điều sau:
• Về tên gọi
Khắp các làng xã giàu truyền thống của Việt Nam, ở đâu cũng đều kiêng tên húy của vị Thành hoàng làng của mình. Ở làng Giá, kiêng từ Man và thường thay bằng từ Men, Miêng. Việc kiêng tên này là hợp lý khi đối chiếu với chính sử vì Thần đã xưng rõ ràng: “Thần là người làng này, họ Lý tên Phục Man,”.
Như vậy Phục Man không phải là hiệu, mà chính lại là tên của Ngài?
Thần đã xưng tên Phục Man nên hàng chục thế kỷ trước đây người dân làng Giá đã không phải khó nhọc tìm kiếm tên húy của Thần. Tên Thần và hiệu của Thần đã dùng chung là Phục Man. Chúng ta tìm ra tên gọi “Phạm Tông” (được coi là vị thân sinh của Thần) xuất hiện khi nào thì sẽ biết lúc đó có người đã kiếm tìm được tên mới họ Phạm cho Thần.
Nếu cứ coi Phục Man là hiệu của Tướng quân, kiêng tên gọi này chứng tỏ cả ngàn năm ở làng Giá không biết tên thật của Lý Phục Man và tên gọi Phạm Tu quả là xa lạ đối với mảnh đất này!
Nếu Tướng quân có tên húy Phạm Tu, tại sao ở làng Giá không kiêng tên Tu? PGS. TS Trương Sỹ Hùng giải thích trong tài liệu số 9:
«Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ.»
• Tại làng Giá, tên tuổi Phạm Tu “dần lui vào quá khứ”?
Ta xác định thời gian tồn tại tên gọi Lý Phục Man của Tướng quân lúc sinh thời của Ngài: Từ khi khởi nghĩa Lý Bí đến khi Tướng quân hóa thần lâu nhất là 7 năm (541-548). Tạm coi khi đánh xong Lâm Ấp vào mùa hạ năm 543, Tướng quân được gọi là Lý Phục Man như vậy rút còn 5 năm. Chưa kể nếu Tướng quân mất tại chiến thành cửa sông Tô năm 545 thì chỉ có khoảng 2 năm. Vậy là tên húy của Tướng quân phải mất rất nhanh chóng, chứ đâu còn “dần lui” như tưởng tượng của ông Trương Sỹ Hùng là đã xảy ra “ngay từ lúc sinh thời”. Điều này quá phi lý đối với “người con quang vinh của làng Giá”.
Ngẫm lại câu: “Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.” Đúng là: Bia miệng ở làng Giá đã không có thông tin về Phạm Tu làm sao có thể ghi vào bia đá Quán Giá!
• Phạm Tu có được ban quốc tính không?
Một lần nữa căn cứ vào chính sử theo lời của Thần: “họ Lý tên Phục Man” thì bản thân Ngài nhận mình mang họ Lý. Do đó việc ban quốc tính cũng có thể truyền miệng mà có. Nhưng xét trong Đại Việt sử ký toàn thư thì ở thời Hậu Lý mới thấy nhà vua ban quốc tính cho một số nhân vật tiêu biểu. Với thời Tiền Lý trước đó hơn 5 thế kỷ, không lẽ Lý Nam Đế thiên vị: Ban cho Tả tướng Phạm Tu quốc tính là Lý Tu, mà Trưởng Ban Văn-Tinh Thiều, Thái phó-Triệu Túc không được ban quốc tính?
• Lý Phục Man thống lĩnh chư tướng đánh Lâm Ấp, được phong Thái úy
Qua lời Thần xưng với Lý Thái Tổ: “làm tướng giúp Nam Đế, có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”, chúng ta thấy chức vụ cao nhất của thần là tướng giữ vùng biên cảnh phía tây (như Tư lệnh quân khu sát biên giới ngày nay) điều này lại được khẳng định: “Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ”. Như đã ghi trong chính sử, hoàn toàn không nói đến việc thần đã làm tướng đánh Lâm Ấp và không đứng đầu quân đội như thống lĩnh chư tướng, không là Thái úy.
Như vậy cả Lý Nam Đế và Thượng đế đều giao cho Tướng quân “trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm”. Bản thân Lý Thái Tổ cũng giao cho Thần vị trí này và được viết rất khéo: “Nay may được bệ hạ thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi.”
Phạm Tu khi hy sinh chắc chắn vẫn là người đứng đầu hàng Võ của nhà nước Vạn Xuân. Nếu Tướng quân được ghi trong chính sử là trưởng ban Võ, Tả tướng, đứng đầu quân đội mà đến cuối lại đi trông coi một vùng biên cảnh phía tây thì đúng là Tướng quân bị giáng chức. Điều này là sự phi lý cao độ bởi Thần khi sống “có tiếng là người trung liệt”, thác được “Thượng đế khen là trung thực” không có lý do gì để giáng chức. Ngay cả Lý Thái Tổ cũng vẫn chỉ cho thần giữ lại chức bị giáng? Như vậy khẳng định khi mất Lý Phục Man hoàn toàn không đứng đầu trăm quan. Không nên ép Lý Phục Man là Phạm Tu nếu không Thần bị “vu khống” một trọng tội với Thượng đế, với Lý Nam Đế và với cả Lý Thái Tổ vì đã giấu giếm tên họ và chức vụ trong khi tứ thơ Ngài đọc rành mạch: “Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt sáng, ai chẳng thấy dáng hình”. Dễ mắc tội khi quân lắm lắm!
Lịch sử Việt Nam có Phạm Cự Lượng (944-?) là người đầu tiên được phong Thái úy vào năm 986 dưới triều Tiền Lê. Ngay triều trước-thời Đinh Tiên Hoàng, người có vị trí đứng đầu quân đội là Lê Hoàn được gọi là Thập đạo tướng quân.
• Về độ tuổi của Phạm Tu khi tham gia khởi nghĩa
Theo tư liệu Quán Giá thì Lý Phục Man trẻ tuổi (sinh khoảng 505-515), Lý Bí (503-548) khoảng vừa sang tứ tuần đã gả công chúa cho Tướng quân, nên công chúa khoảng hai mươi và Tướng quân chắc chắn trẻ hơn Lý Bí và có thể ngoài ba mươi tuổi. Như vậy có thể Lý Phục Man ngang tuổi với Triệu Quang Phục (?-571).
Trong thời gian từ năm 541 đến đầu năm 545, không đủ thời gian và hoàn cảnh để Lý Phục Man này trở thành vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà nước Vạn Xuân. Cùng trang lứa, ngang sức ngang tài thì cả Triệu Quang Phục và Lý Phục Man đều chưa được xếp là khai quốc công thần hàng đầu của triều đình Vạn Xuân.
Chúng ta thấy Phạm Tu trong sử sách đã bước qua thời trai trẻ trở thành thủ lĩnh có uy tín đã ngao du kết bạn với hào kiệt nhiều vùng khác nhau như Triệu Túc. Phạm Tu sẽ là bậc cha chú của Triệu Quang Phục, Lý Phục Man.
• Phạm Tông là cha của Lý Phục Man?
Từ năm 1728, ở văn bia ghi thần tích Quán Giá; tiếp đến năm 1938, mặc dù nghiên cứu kỹ lưỡng ông Nguyễn Văn Huyên cũng không tìm ra tên họ thật của Lý Phục Man. Vậy mà trong cuốn Sự tích đức thánh Giá in năm 2009, ở trang 17 có đoạn: “Ngài sinh ngày mồng 10 tháng 3 của thập kỷ đầu thế kỷ thứ 6 sau công nguyên (khoảng từ năm 505 - 515) trong một gia đình họ Phạm, cha là Phạm Tông còn tên mẹ thì không được rõ.” Như thế cha của Lý Phục Man là Phạm Tông? Sự việc đồng nhất sẽ rõ ràng khi chúng ta tìm hiểu tên gọi “Phạm Tông” của cụ thân sinh Lý Phục Man xuất hiện như thế nào?
5. Ý kiến của một số nhà khoa học
Theo GS Lê Văn Lan: "... có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết."
Cuốn thông sử Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, do Đỗ Văn Ninh chủ biên (2001) thận trọng chú thích: “Lý Phục Man là một nhân vật chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc. Có người cho rằng Lý Phục Man với Phạm Tu là một. Vấn đề này cần được chứng minh.”
Cuốn Lịch sử quân sự Việt Nam, chủ biên GS Trần Quốc Vượng và Lê Đình Sỹ, Nxb Chính trị Quốc gia in năm 2001 ở tập II có ghi: “Phạm Tu và Lý Phục Man là một hay hai người và quan hệ với nhau như thế nào, đấy là một vấn đề được đặt ra từ rất lâu, nhưng chưa đủ cứ liệu khoa học để kết luận.” Như vậy không khẳng định được việc đồng nhất hai nhân vật.
PGS. TS Bùi Xuân Đính hiện là Viện trưởng Viện Dân tộc cũng đã đề cập đến vấn đề đồng nhất khi viết về Lý Phục Man:
“Tên chính của ông là Phạm Tu-một võ tướng, một trụ cột của triều đình Lý Nam Đế. Ý kiến này hiện vẫn chưa được giới khoa học khẳng định một cách chắc chắn”. Đó là ý kiến trong Hành trình về làng Việt cổ của PGS. TS Bùi Xuân Đính nhưng khi ông khi viết về làng Thanh Liệt lại ghi: "Thế kỷ thứ VI, làng Thanh Liệt sản sinh một người con trở thành vị tướng tài là Phạm Tu (476-548)".
Theo biên bản họp nghiệm thu bản thảo cuốn Thăng Long-Hà Nội những trang sử vẻ vang chống ngoại xâm của PGS. TS Lê Đình Sỹ, có nhận xét của PGS. TS Viện trưởng Viện Sử học Nguyễn Văn Nhật là: Một số khái niệm cần thống nhất: Lý Phục Man và Phạm Tu, là một người hay 2 người (Tr. 47, 48), …. Đặc biệt là ý kiến của GS Phan Huy Lê kết luận: “Quan điểm về Phạm Tu và Lý Phục Man là 1 người hay 2 người hiện nay chưa thống nhất, tác giả không nên khẳng định.” Thế nhưng cuốn sách đã in mà sai sót không được sửa chữa. Ví dụ: “Khi nhà Lương phái quân đánh Vạn Xuân, Phạm Tu chỉ huy quân đội chiến đấu và hy sinh anh dũng. Thi hài của ông được đưa về bến Hồ Mã, an táng tại quê hương.” hay “Năm 1016, vua Lý Thái Tổ qua bến Cổ Sở, đã sai lập đền thờ và đắp tượng Phạm Tu,…”.
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc không tán thành quan điểm đồng nhất hai nhân vật này. Theo ông, danh nhân Phạm Tu ghi trong sử sách, thần Lý Phục Man được nhân dân tôn thờ đều là những nhân vật rạng rỡ với Đất nước, rất xứng đáng. Không phải gượng ép đồng nhất để mong muốn đề cao một người, đó là điều không cần thiết.
Đã có lúc GS Lê Văn Lan bảo vệ quan điểm đồng nhất từ làng Giá, nhưng mới đây, trên trang 29 tạp chí Người Hà Nội số 96 (ngày 29-10-2010) trong bài “Lý Nam Đế xây đài Vạn Xuân” tác giả đã viết:
«Khởi đầu là việc dựng cờ khởi nghĩa vào năm 542, chống lại nhà Lương ở phương Bắc sang đô hộ nước Việt. Đó là cuộc khởi nghĩa toàn dân, có được rất nhiều anh tài, dũng sĩ khắp nơi theo về ủng hộ. Văn thì có Tinh Thiều, Triệu Túc. Võ thì có Phạm Tu, Lý Phục Man. Và những nào là Lý Hùng, Lý Thiên Bảo, đặc biệt là Triệu Quang Phục (chính là con trai của Triệu Túc, sau này sẽ kế nghiệp Lý Bí mà trở thành thủ lĩnh: Triệu Việt Vương).»
Như vậy cũng dần thấy sự thống nhất từ quá trình phát triển ba mươi năm qua của sự việc: quan điểm đồng nhất là thiểu số (đại diện có: PGS. TS Lê Đình Sỹ, PGS. TS Trương Sỹ Hùng, ông Nguyễn Bá Hân, ông Nguyễn Thế Dũng ở làng Giá) và không có cơ sở khoa học.
Kết luận
Qua khảo sát các tài liệu lưu hành 50 năm trở lại đây, ở các tài liệu có trước năm 1980, đặc biệt quan trọng là ba tấm văn bia cổ ghi sự tích của Quán Giá không có một chỗ nào đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu. Đáng chú ý là sử của Việt Nam và Trung Quốc cùng hệ thống sách giáo khoa đã không đồng nhất hai nhân vật này. Đến nay có thể khẳng định: tài liệu hiện có về Lý Phục Man phát hành trước năm 1980 không có cơ sở cho ông là Phạm Tu người đứng đầu ban Võ nhà nước Vạn Xuân. Tài liệu về Phạm Tu cũng không thể chứng minh ông là Lý Phục Man. Trong khi thông tin về tiểu sử hai nhân vật cũng là riêng biệt mà không thể đồng nhất được: đó là quê hương, tên họ hai vị thân sinh và năm sinh của từng nhân vật. Về tư liệu, có nhiều mâu thuẫn, thiếu cơ sở nên không thể đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu.
Qua các tư liệu đã nghiên cứu cho thấy thần Lý Phục Man trong giấc mộng của Lý Thái Tổ (sau gần năm trăm năm kể từ khi Phạm Tu mất) không thể là danh tướng Phạm Tu đứng đầu ban Võ của nhà nước Vạn Xuân. Theo thần tích của hai làng: Hãy để quê hương của Phạm Tu ở làng Quang (Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) và thần Lý Phục Man ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội. Không có cơ sở đồng nhất, hãy sử dụng tư liệu về từng nhân vật riêng biệt, không nên lẫn lộn để làm phức tạp vấn đề.
Từ Đường Lâm đến Long Biên, ngày 05-6-2011
4.6.11
Thông tin về công trình tu bổ tôn tạo Đình Ngoại
Trưa ngày 3/6/2011, trời nắng nhẹ đường vào Đình gập ghềnh và nát tả tơi bởi xe tải hạng nặng thường chở vật liệu về đây. Những công trình đại đình, nhà tạo soạn, nhà khách, nhà thọ đã sắp xong phần xây thô. Xe ủi bắt đầu san nền làm sân đình, đứng trên nền cao thấy lòng hồ sâu hơn, không gian thoáng đạt hơn.
Có lẽ đầu tháng 7 âm lịch công trình sẽ cơ bản hoàn thành để đón bà con trên mọi miền đất nước về dự hội. Trong quá trình thi công công trình, rất nhiều khách thập phương đã về đây để góp phần nhỏ bé để công trình được khang trang hơn. Theo ông thủ từ - "người phát ngôn của đình": gần đây có một vị xin cung tiến đôi câu đối và hoành phi vào đại đình. Hoành phi được chứng cho 4 chữ đại tự mà dự kiến sẽ được treo ở gian đình chính. Người cung tiến tuy không phải là người họ Phạm nhưng 4 chữ đại tự có lẽ con cháu dòng họ Phạm Việt Nam sẽ phấn khởi khi bức hoành phi "PHẠM TỔ LINH TỪ" được treo lên ở Đình Ngoại. Đây là tấm bằng chứng nhận đi vào lòng người và phần nào biểu dương hoạt động của Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam suốt 14 năm qua.
Như vậy dòng họ Phạm hậu duệ của Đô Hồ Đại vương Phạm tướng công tin tưởng miền đất Tổ linh thiêng của mình bên dòng sông Tô là làng Quang văn vật của đất Thăng Long-Hà Nội.
20 tháng 7 năm Tân Mão (2011) sẽ là ngày gặp mặt ý nghĩa của con cháu dòng họ Phạm và những người tôn kính Danh nhân Phạm Tu (476-545).
Có lẽ đầu tháng 7 âm lịch công trình sẽ cơ bản hoàn thành để đón bà con trên mọi miền đất nước về dự hội. Trong quá trình thi công công trình, rất nhiều khách thập phương đã về đây để góp phần nhỏ bé để công trình được khang trang hơn. Theo ông thủ từ - "người phát ngôn của đình": gần đây có một vị xin cung tiến đôi câu đối và hoành phi vào đại đình. Hoành phi được chứng cho 4 chữ đại tự mà dự kiến sẽ được treo ở gian đình chính. Người cung tiến tuy không phải là người họ Phạm nhưng 4 chữ đại tự có lẽ con cháu dòng họ Phạm Việt Nam sẽ phấn khởi khi bức hoành phi "PHẠM TỔ LINH TỪ" được treo lên ở Đình Ngoại. Đây là tấm bằng chứng nhận đi vào lòng người và phần nào biểu dương hoạt động của Ban liên lạc họ Phạm Việt Nam suốt 14 năm qua.
Như vậy dòng họ Phạm hậu duệ của Đô Hồ Đại vương Phạm tướng công tin tưởng miền đất Tổ linh thiêng của mình bên dòng sông Tô là làng Quang văn vật của đất Thăng Long-Hà Nội.
20 tháng 7 năm Tân Mão (2011) sẽ là ngày gặp mặt ý nghĩa của con cháu dòng họ Phạm và những người tôn kính Danh nhân Phạm Tu (476-545).
9.4.11
Bản tin vắn 2010 về danh tướng Phạm Tu
1. 28/01/2010 Khởi công tu bổ Đình Ngoại
2. 07/6/2010 Khởi công tu bổ đình Ngọc Than (thờ Lý Nam Đế, Phạm Tu)
3. 13-15/7/2010 đã diễn ra kỳ họp HĐND Thành phố Hà Nội lần thứ 21, đường phố mang tên Danh tướng Phạm Tu đã không được đặt nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long
4. 15/8/2010 Diễn đàn bàn về vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (mở ngày 07/9/2009 nhân 1464 năm ngày hy sinh của danh tướng Phạm Tu) đạt 10.000 lượt truy cập
5. Trước ngày lễ trọng, tháng 8/2010 liên tiếp có những công bố tư liệu về Phạm Tu quê ở Thanh Liệt của cùng tác giả Phạm Hồng Vũ:
- Nxb Thanh niên xuất bản cuốn "Đô Hồ Đại vương Phạm Tu (476-545)Công thần khai quốc của nhà nước Vạn Xuân (544-602)".
- Báo Hà Nội mới đăng bài "Danh tướng Phạm Tu"
6. 28/8/2010, lập nơi thờ vọng Phạm Tu tại nhà thờ họ Phạm làng An Ninh Hạ (trên đường Lý Nam Đế) Thành phố Huế
7. 29/8/2010 Kỷ niệm 1465 năm ngày hy sinh của Danh tướng Phạm Tu
8. 06/10/2010 Khánh thành Bảo tàng Hà Nội, Bức tranh thờ Lão tướng Phạm Tu (Đình Ngoại, Thanh Liệt) được đặt trong bảo tàng ghi công người anh hùng có nhiều cống hiến cho Kinh đô
Bức ảnh chụp tại Đình Ngoại khi BLL họ Phạm VN vào dâng hương ngày 20 tháng 7 Bính Tuất (2006)
2. 07/6/2010 Khởi công tu bổ đình Ngọc Than (thờ Lý Nam Đế, Phạm Tu)
3. 13-15/7/2010 đã diễn ra kỳ họp HĐND Thành phố Hà Nội lần thứ 21, đường phố mang tên Danh tướng Phạm Tu đã không được đặt nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long
4. 15/8/2010 Diễn đàn bàn về vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (mở ngày 07/9/2009 nhân 1464 năm ngày hy sinh của danh tướng Phạm Tu) đạt 10.000 lượt truy cập
5. Trước ngày lễ trọng, tháng 8/2010 liên tiếp có những công bố tư liệu về Phạm Tu quê ở Thanh Liệt của cùng tác giả Phạm Hồng Vũ:
- Nxb Thanh niên xuất bản cuốn "Đô Hồ Đại vương Phạm Tu (476-545)Công thần khai quốc của nhà nước Vạn Xuân (544-602)".
- Báo Hà Nội mới đăng bài "Danh tướng Phạm Tu"
6. 28/8/2010, lập nơi thờ vọng Phạm Tu tại nhà thờ họ Phạm làng An Ninh Hạ (trên đường Lý Nam Đế) Thành phố Huế
7. 29/8/2010 Kỷ niệm 1465 năm ngày hy sinh của Danh tướng Phạm Tu
8. 06/10/2010 Khánh thành Bảo tàng Hà Nội, Bức tranh thờ Lão tướng Phạm Tu (Đình Ngoại, Thanh Liệt) được đặt trong bảo tàng ghi công người anh hùng có nhiều cống hiến cho Kinh đô
Bức ảnh chụp tại Đình Ngoại khi BLL họ Phạm VN vào dâng hương ngày 20 tháng 7 Bính Tuất (2006)
DANH TƯỚNG PHẠM TU VÀ DI TÍCH ĐÌNH NGOẠI
Danh tướng Phạm Tu (476-545) quê ở xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội là nhân vật tài ba, như là kiến trúc sư của nhà nước độc lập giữa thế kỷ thứ VI. (1) Sử sách đã ghi lại rằng Phạm Tu là một trong những người ghi dấu ấn đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất Thăng Long xưa. Những năm gần đây, vai trò của ông càng được làm rõ (2) là Đại Thành hoàng Thăng Long-Hà Nội, người đã:
- Là vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, đứng đầu Ban Võ nhà nước Vạn Xuân (vị Tổng Tư lệnh đầu tiên của nhà nước Việt có bộ máy chính quyền)
- Sinh ra bên bờ sông Tô; ở tuổi 70, Ông hy sinh oanh liệt ngay ở chiến thành vùng cửa sông Tô trên đất hương Long Đỗ cổ
- Đánh giặc Bắc: có công lớn trong việc hạ thành Long Biên, giải phóng đất nước, kháng chiến chống quân Lương xâm lược
- Đuổi giặc Nam: người Việt Nam đầu tiên cầm quân giữ yên bờ cõi phía Nam
- Tham mưu cho Lý Nam Đế lập kinh đô, chiến thành cửa sông Tô ở vùng đất Hà Nội thời tiền Thăng Long (3)
Thanh Liệt xưa gọi là Quang Liệt, thế đất được coi là đất đế vương: “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Quang Liệt”. Năm 1690, nhà địa lý Tả Ao đã chọn thế đất đẹp để dựng ngôi đình thờ danh tướng Phạm Tu. (4)
Đến thăm Đình Ngoại bằng phương tiện vận tải công cộng, thuận tiện nhất là đi xe buýt số 37 (Chương Mỹ-Bến xe Giáp Bát) xuống ở điểm dừng UBND xã Thanh Liệt cạnh đình thờ Chu Văn An
Hằng năm cứ đến ngày 20 tháng 7 âm lịch, người họ Phạm ở khắp mọi miền đều tụ lại với nhau để được nối mình với cội nguồn tổ tiên, cùng nhau ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng Phạm Tu. Năm 1998, được sự hỗ trợ của Hội Sử học Việt Nam, một hội thảo khoa học diễn ra tại Hà Nội đã suy tôn Đô Hồ Đại Vương Phạm Tu là thượng thủy tổ họ Phạm Việt Nam. (5)
Năm 2008, trước mộ của danh tướng Phạm Tu, lãnh đạo thành phố Hà Nội đã kính cẩn khấn rằng:
...“Sinh vi tướng, tử vi thần”, nhân dân Thăng Long tôn thờ Ngài là vị Thành hoàng của Thủ đô, tin tưởng ở Ngài như tin tưởng ở sức mạnh bất diệt của Dân tộc.
…Chúng con cùng nhân dân nguyện chăm lo, trùng tu, tôn tạo đền thờ Ngài tại xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì để bốn mùa hương khói. Ngay tại trụ sở Ủy ban, chúng con dành một nơi trang nghiêm để hàng ngày tưởng niệm Ngài. (6)
Năm 2011 là năm kỷ niệm lần thứ 1535 năm sinh của Danh tướng Phạm Tu (476-545), vị khai quốc công thần triều Lý Nam Đế (544-602). Năm 2009, UBND thành phố Hà Nội đã có quyết định tu bổ tôn tạo Đình thờ Đô hồ Đại vương Phạm Tu ở chính quê hương Ngài thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì với dự án có vốn đầu tư 29 tỷ đồng và với khoảng 6 tỷ đồng tiền công đức của thập phương và con cháu dòng họ Phạm. Ngày 28.01.2010, UBND thành phố Hà Nội và UBND huyện Thanh Trì đã tổ chức lễ khởi công Công trình tu bổ và tôn tạo Đình thờ Đô hồ Đại vương Phạm Tu và dự kiến đến ngày 20 tháng 7 âm lịch (tức 19.8.2011) sẽ tổ chức khánh thành đúng vào ngày mất của Ngài. (7)
Đến nay chúng tôi thấy có một số nơi thờ Phạm Tu:
- Xã Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội có 3 nơi thờ: Đình Ngoại, Miếu Vực, Đình Lý Nhân.
- Xã Ngọc Mỹ, Quốc Oai, Hà Nội: Đình Ngọc Than (thờ Lý Nam Đế và Phạm Tu).
- Xã Thụy Văn, Thái Thụy, Thái Bình: Thôn Hoành Sơn.
Có thể còn một số nơi khác thuộc châu thổ sông Hồng, ở xứ Nghệ cũng thờ Phạm Tu. Trong đó có khoảng 200 nơi thờ Lý Nam Đế sẽ có nhiều nơi thờ vị võ tướng số 1 của Hoàng đế như ở Đình Ngọc Than. Việc khảo sát tư liệu cần sự tham gia của các nhà nghiên cứu và sự góp sức của các thành viên họ Phạm trên toàn quốc.
1 – Nhà sử học Bùi Thiết, “Thăng Long – Hà Nội linh thiêng và hào hoa”
2, 4, 5 – Hồng Vũ, “Danh tướng Phạm Tu”
3 – Tháp Bút, “Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu”
6 – GS.Vũ Khiêu, “Bài văn khấn Danh tướng Phạm Tu”
7 – Nhà sử học Dương Trung Quốc, “Đề cương tổ chức hội thảo: Danh tướng Phạm Tu và Họ Phạm trong lịch sử”
Mở đầu
Nhân ngày kỷ niệm 999 năm Thăng Long-Hà Nội, tròn 1 năm trước đại lễ 1000 năm Thăng Long, chúng ta nhắc đến mảnh đất địa linh nhân kiệt núi Nùng sông Tô (NNST) với một nhân vật lịch sử rất tiêu biểu của Thăng Long-Hà Nội cách nay 15 thế kỷ. Danh nhân đó chính là “vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức”, lão tướng Phạm Tu-một tấm gương trong của lịch sử Dân tộc.
(Ảnh do BLL Họ Phạm VN cung cấp)
Thế nhưng ngày nay vai trò của ông với mảnh đất NNST mới dần được làm rõ. Một việc cản trở tiến trình tất yếu đó: chính là việc đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu gây nên sự thiếu thống nhất trong giới khoa học. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc tôn vinh vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, người đã sinh ra, sống, dù cao tuổi vẫn đánh giặc và đã hy sinh vì mảnh đất NNST. Ngay tại hương Long Đỗ xưa, ông đã cống hiến tính mạng cho nhân dân Vạn Xuân khi ở tuổi “xưa nay hiếm”. So với các vị tướng quân nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, ông xứng đáng là vị Quốc đô Thành hoàng mà nay còn gọi là Đại Thành hoàng Thăng Long-Hà Nội.
Từ lòng kính trọng một danh nhân tiêu biểu của Thủ đô, của nước Việt, chúng tôi sưu tầm tư liệu và viết chuyên đề
ĐI TÌM CƠ SỞ ĐỒNG NHẤT LÝ PHỤC MAN VỚI PHẠM TU
với tâm nguyện tìm ra đâu là cơ sở để xác định sự thật của việc đồng nhất.
Bố cục của chuyên đề như sau:
Sử dụng bài Lão tướng Phạm Tu của GS. Lê Văn Lan để đặt vấn đề: “việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết.”
I. Những tư liệu đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (gồm 6 bài chính)
II. Tư liệu về Phạm Tu (gồm 6 bài chính)
III. Tư liệu về Lý Phục Man (gồm 7 bài chính)
IV. Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (gồm 10 bài chính)
Đây là nội dung chính của chuyên đề này với các bài viết giải quyết từng việc cụ thể như nguyên nhân đồng nhất, thời gian xuất hiện đồng nhất, mức độ đồng nhất, những người đã đồng nhất, …
1. Tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu qua tài liệu cổ
Để tìm ra cơ sở phải tìm ra việc đồng nhất này “nói có sách, mách có chứng” hay không? Thư tịch cổ vẫn là căn cứ quan trọng nhất. Không tìm thấy việc đồng nhất từ thư tịch cổ hiện có.
2. Xác định thời gian xuất hiện việc đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
Căn cứ thông tin xuất hiện việc không đồng nhất và đồng nhất để xác định mốc thời gian chính thức xuất hiện sự việc.
3. Trả lời một số ý kiến của blogger Người làng Giá về danh tướng Phạm Tu ở Thanh Liệt
Phủ nhận lại việc Người làng Giá phủ nhận: Phạm Tu không phải là người Thanh Liệt, Phạm Tu không phải là lão tướng.
4. Góp ý với tác giả Trương Sỹ Hùng và Ban biên tập Thông báo Hán Nôm 2009
Đóng góp ý kiến về một số điểm chưa phù hợp trong bài viết “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trên ấn phẩm uy tín của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
5. Sự tích về Lý Phục Man, những điều khó đứng vững trong cuộc sống và trong lịch sử Dân tộc
Từ Sự tích cho thấy tướng quân Lý Phục Man phần nhiều vẫn sống trong tưởng tượng từ thời Lý Thái Tổ đến nay.
6. Những cuốn sách viết về danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man
Bài viết này nhằm tìm hiểu mức độ đồng nhất thể hiện chủ yếu qua các cuốn sách.
7. Tìm cơ sở đồng nhất từ văn bia Quán Giá
Đây là căn cứ chính xác định việc đồng nhất có đủ cơ sở khoa học không.
Trong khi các nhà khoa học còn nghi vấn: có thể Lý Phục Man không phải là nhân vật lịch sử. Thay vì việc trước tiên phải chứng minh Lý Phục Man là nhân vật lịch sử, bằng cách đồng nhất vị thần này với danh tướng Phạm Tu, có thể đã làm lạc hướng chú ý.
8. Điều rút ra từ công trình nghiên cứu về Lý Phục Man của GS. Nguyễn Văn Huyên.
Công trình này là một nghiên cứu khoa học, khách quan có thể xem là một căn cứ quyết định cho việc rút ra nhận xét: thiếu cơ sở để đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu. Xem “Hồi ức Nguyễn Văn Huyên” của con gái ông để biết phương pháp, giá trị của các công trình khoa học liên quan.
9. Có đồng nhất tả tướng Phạm Tu với phò mã Lý Phục Man được không?
Bằng một số chứng minh cho thấy việc đồng nhất hiện nay là không phù hợp và thiếu cơ sở khoa học.
10. Những điều trông thấy từ vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
Bài viết mang tính tổng kết nghiên cứu, dựa vào chính sử để thấy sự bất hợp lý khi cho rằng Lý Phục Man là Phạm Tu.
Thay lời kết
Nhớ về Lão tướng Phạm Tu (gồm 5 bài)
Cuối mỗi bài viết các mục I, II, III (phần sưu tầm tư liệu) có nêu một số chú thích của chúng tôi.
*
Do nguồn tư liệu hạn chế nên sẽ không tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị.
Chân thành cám ơn các nhà nghiên cứu đã cho chúng tôi thông tin viết chuyên đề này. Chính những ý kiến đồng nhất đã cung cấp tư liệu và giúp chúng tôi tìm hiểu sâu thêm về danh nhân Phạm Tu. Một lần nữa “phủ định của phủ định” để làm sáng rõ về thân thế sự nghiệp của lão tướng Phạm Tu quê ở Thanh Liệt.
Cám ơn sự động viên giúp đỡ và chia sẻ của bạn đọc xa gần.
Long Biên, ngày 08/10/2009
Tháp Bút
(có sửa chữa bổ sung đến ngày 15/11/2010 )
(Ảnh do BLL Họ Phạm VN cung cấp)
Thế nhưng ngày nay vai trò của ông với mảnh đất NNST mới dần được làm rõ. Một việc cản trở tiến trình tất yếu đó: chính là việc đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu gây nên sự thiếu thống nhất trong giới khoa học. Điều này đã làm ảnh hưởng đến việc tôn vinh vị khai quốc công thần triều Tiền Lý, người đã sinh ra, sống, dù cao tuổi vẫn đánh giặc và đã hy sinh vì mảnh đất NNST. Ngay tại hương Long Đỗ xưa, ông đã cống hiến tính mạng cho nhân dân Vạn Xuân khi ở tuổi “xưa nay hiếm”. So với các vị tướng quân nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, ông xứng đáng là vị Quốc đô Thành hoàng mà nay còn gọi là Đại Thành hoàng Thăng Long-Hà Nội.
Từ lòng kính trọng một danh nhân tiêu biểu của Thủ đô, của nước Việt, chúng tôi sưu tầm tư liệu và viết chuyên đề
ĐI TÌM CƠ SỞ ĐỒNG NHẤT LÝ PHỤC MAN VỚI PHẠM TU
với tâm nguyện tìm ra đâu là cơ sở để xác định sự thật của việc đồng nhất.
Bố cục của chuyên đề như sau:
Sử dụng bài Lão tướng Phạm Tu của GS. Lê Văn Lan để đặt vấn đề: “việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết.”
I. Những tư liệu đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (gồm 6 bài chính)
II. Tư liệu về Phạm Tu (gồm 6 bài chính)
III. Tư liệu về Lý Phục Man (gồm 7 bài chính)
IV. Đi tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu (gồm 10 bài chính)
Đây là nội dung chính của chuyên đề này với các bài viết giải quyết từng việc cụ thể như nguyên nhân đồng nhất, thời gian xuất hiện đồng nhất, mức độ đồng nhất, những người đã đồng nhất, …
1. Tìm cơ sở đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu qua tài liệu cổ
Để tìm ra cơ sở phải tìm ra việc đồng nhất này “nói có sách, mách có chứng” hay không? Thư tịch cổ vẫn là căn cứ quan trọng nhất. Không tìm thấy việc đồng nhất từ thư tịch cổ hiện có.
2. Xác định thời gian xuất hiện việc đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
Căn cứ thông tin xuất hiện việc không đồng nhất và đồng nhất để xác định mốc thời gian chính thức xuất hiện sự việc.
3. Trả lời một số ý kiến của blogger Người làng Giá về danh tướng Phạm Tu ở Thanh Liệt
Phủ nhận lại việc Người làng Giá phủ nhận: Phạm Tu không phải là người Thanh Liệt, Phạm Tu không phải là lão tướng.
4. Góp ý với tác giả Trương Sỹ Hùng và Ban biên tập Thông báo Hán Nôm 2009
Đóng góp ý kiến về một số điểm chưa phù hợp trong bài viết “Danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man là một hay hai người” đăng trên ấn phẩm uy tín của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
5. Sự tích về Lý Phục Man, những điều khó đứng vững trong cuộc sống và trong lịch sử Dân tộc
Từ Sự tích cho thấy tướng quân Lý Phục Man phần nhiều vẫn sống trong tưởng tượng từ thời Lý Thái Tổ đến nay.
6. Những cuốn sách viết về danh tướng Phạm Tu và Lý Phục Man
Bài viết này nhằm tìm hiểu mức độ đồng nhất thể hiện chủ yếu qua các cuốn sách.
7. Tìm cơ sở đồng nhất từ văn bia Quán Giá
Đây là căn cứ chính xác định việc đồng nhất có đủ cơ sở khoa học không.
Trong khi các nhà khoa học còn nghi vấn: có thể Lý Phục Man không phải là nhân vật lịch sử. Thay vì việc trước tiên phải chứng minh Lý Phục Man là nhân vật lịch sử, bằng cách đồng nhất vị thần này với danh tướng Phạm Tu, có thể đã làm lạc hướng chú ý.
8. Điều rút ra từ công trình nghiên cứu về Lý Phục Man của GS. Nguyễn Văn Huyên.
Công trình này là một nghiên cứu khoa học, khách quan có thể xem là một căn cứ quyết định cho việc rút ra nhận xét: thiếu cơ sở để đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu. Xem “Hồi ức Nguyễn Văn Huyên” của con gái ông để biết phương pháp, giá trị của các công trình khoa học liên quan.
9. Có đồng nhất tả tướng Phạm Tu với phò mã Lý Phục Man được không?
Bằng một số chứng minh cho thấy việc đồng nhất hiện nay là không phù hợp và thiếu cơ sở khoa học.
10. Những điều trông thấy từ vấn đề đồng nhất Lý Phục Man với Phạm Tu
Bài viết mang tính tổng kết nghiên cứu, dựa vào chính sử để thấy sự bất hợp lý khi cho rằng Lý Phục Man là Phạm Tu.
Thay lời kết
Nhớ về Lão tướng Phạm Tu (gồm 5 bài)
Cuối mỗi bài viết các mục I, II, III (phần sưu tầm tư liệu) có nêu một số chú thích của chúng tôi.
*
Do nguồn tư liệu hạn chế nên sẽ không tránh khỏi thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp của quý vị.
Chân thành cám ơn các nhà nghiên cứu đã cho chúng tôi thông tin viết chuyên đề này. Chính những ý kiến đồng nhất đã cung cấp tư liệu và giúp chúng tôi tìm hiểu sâu thêm về danh nhân Phạm Tu. Một lần nữa “phủ định của phủ định” để làm sáng rõ về thân thế sự nghiệp của lão tướng Phạm Tu quê ở Thanh Liệt.
Cám ơn sự động viên giúp đỡ và chia sẻ của bạn đọc xa gần.
Long Biên, ngày 08/10/2009
Tháp Bút
(có sửa chữa bổ sung đến ngày 15/11/2010 )
LÃO TƯỚNG PHẠM TU
Lê Văn Lan
Những phát hiện sử học mới đây của Giáo sư Lê Văn Lan và Giáo sư Shiro Momoki (Đại học Osaka-Nhật Bản) cho biết, ông sinh năm 476 tại xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội và mất tại cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) năm 545 sau Công nguyên.
“Trong lịch sử nước ta, ông là vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức”-đó là lời nhận định về Phạm Tu trong cuốn “Từ điển văn hóa Việt Nam” (Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, 1993).
“Một triều đình có tổ chức” ở đây, là triều đình của nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam Đế, cách nay đã 15 thế kỷ! Tuy nhiên, hẳn vì thời gian quá xa nên sử liệu gốc về ông, để lại cho đến nay, thật hết sức hiếm.
Trong bộ sử cổ nhất còn sót lại được đến nay là “Đại Việt sử lược”, giữa những trang dòng nói về Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân hồi thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên không có chữ nào chép về ông.
Đến bộ chính sử “Đại Việt sử ký toàn thư”, thì cũng chỉ có hai lần xuất hiện tên ông. Trong biên niên về năm Quý Hợi (543 sau Công Nguyên), ta thấy lần đầu tiên, tên Phạm Tu được chép trong văn cảnh như sau: “Mùa hạ, tháng tư, vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua (Lý Nam Đế) sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức”. Lần thứ hai, dưới cái tên mà bản dịch của Viện sử học (in năm 1967) viết là “Phan Tu”, ta thấy biên niên sử, năm Giáp Tý (544 sau Công nguyên), nói đến việc Phạm Tu được Lý Nam Đế cử đứng đầu hàng quan võ (cùng với Triệu Túc: thái phó, và Tinh Thiều: đứng đầu hàng quan văn) của triều đình Vạn Xuân.
Sử liệu gốc về “vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức” trong lịch sử rất lâu đời của nước ta, vẻn vẹn chỉ có thế.
Chính vì vậy mà việc nhận diện, nhận chân về Phạm Tu trở nên vừa khó khăn, mơ hồ, vừa mâu thuẫn, phức tạp.
Chẳng hạn như những dòng viết về ông sau đây, trong bộ “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 744): Quê làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội (nay là Hà Tây). Ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý, nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man, lại được vua gả công chúa Phương Dung cho... Mộ và đền thờ ông, nay hãy còn di tích tại quê ông ở làng Giá.
Như vậy, ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết. Do đó, nảy sinh một vấn đề trước tiên là: Quê hương bản quán của Phạm Tu ở đâu? Bởi vì, trong khi “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” cho rằng Phạm Tu là người có quê ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây) thì, chẳng hạn như “Từ điển văn hóa Việt Nam” hoặc vừa đây, sách “Thành hoàng Việt Nam” (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997, tập II, tr. 565) đều khẳng định rằng: ông là người quê làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội; hoặc “quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội”.
Về thời gian mất của ông, thì có lẽ người ta chỉ biết căn cứ vào hai câu sau đây trong tập diễn ca thế kỷ 18 “Thiên Nam ngữ lục”.
Vua cùng tướng quân Phạm Tu
Vào Khuất Liêu động thác hư lên trời
Mà việc vua Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão (Khuất Liêu) thì được tính là vào năm 548, cho nên sách “Thành hoàng Việt Nam” mới chép về năm mất của Phạm Tu cũng là năm 548. Trong khi đó, nhiều tài liệu khác-trong đó có sách “Lịch sử Việt Nam, tập I” (Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 411) lại đều khẳng định là Phạm Tu hy sinh năm 545.
Cả về nơi mất của ông nữa, trong khi, chẳng hạn “Từ điển văn hóa Việt Nam”, hẳn là dựa theo “Thiên Nam ngữ lục” viết rằng Phạm Tu mất tại động Khuất Liêu (một địa danh, lại cũng từng được đoán định vị trí khá là khác nhau: hoặc ở miền tây Phú Thọ, hoặc ở phía nam Tuyên Quang) thì, sách “Hà Nội nghìn xưa” (Sở văn hóa thông tin Hà Nội, xuất bản 1975) lại khẳng định rằng, đó là “miền cửa sông Tô Lịch (trung tâm Hà Nội cổ)” (tr. 112).
Giữa những thông tin bộn bề trái ngược như thế về vị lão tướng quân họ Phạm ở thế kỷ 6, may thay, gần đây, đã có những công phu để bắt được sóng tín hiệu từ một trung tâm phát sóng rất có giá trị, ở một làng cổ ven đô Hà Nội: xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Có lẽ, người đầu tiên phát hiện và khai thác được nguồn tài liệu địa phương quan trọng ở đây, là học giả Vũ Tuân Sán (Chí Kiên). Nhiều thông tin đặc sắc về Phạm Tu, trước đây chưa mấy được biết đến, được ông công bố sớm trong sách “Danh nhân Hà Nội” (Hội văn nghệ Hà Nội, xuất bản 1973) để rồi sau đó, hợp tác với Giáo sư Trần Quốc Vượng viết thêm vào trong sách “Hà Nội nghìn xưa”, đã rọi nhiều tia sáng vào lớp mây mù đang vây phủ nhân vật lịch sử lớn, mà đến năm 1998 này đã là ngày giỗ lần thứ 1453.
Thế hệ những người họ Phạm, đang sống ngay tại xã Thanh Liệt cũng như ở khắp nơi: Hà Tây, Hà Tĩnh, Ninh Bình... và nội đô Hà Nội, lần theo sợi chỉ ẩn hiện trong suốt 15 thế kỷ lịch sử đã qua, để nối mình với nguồn cội, tổ tiên: Lão tướng quân Phạm Tu, đã tạo điều kiện để cho thêm một lần nữa, những thông tin, tín hiệu về một vì sao trên bầu trời lịch sử thế kỷ 6, phát đi từ quê hương Thanh Liệt, lại được hiển hiện.
Đầu tháng Bảy lịch Trăng, sắp đến ngày giỗ lần thứ 1452 (năm 1997) và chuẩn bị cho ngày giỗ lớn vào năm 2000 của Phạm Tu, chúng tôi cùng Giáo sư Shiro Momoki ở đại học tổng hợp Osaka (Nhật Bản) đã có thêm một dịp hành hương về xã Thanh Liệt.
Gần 8.000 con người sống trong ngôi làng rộng đến 4 km2 này, đều coi nơi đây chính là quê hương của Phạm Tu, mà họ kính cẩn gọi là Đức Thánh của làng, là Đô Hồ Đại vương, hoặc có nhắc đến tên, thì kính trọng gọi đầy đủ là Phạm Đô Tu.
Có thể hiểu những tên và danh hiệu này, khi đọc được ở đây, bản thần tích của làng, với tên gọi đầy đủ là: “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, thụy Đô Hồ Đại vương, thượng đẳng thần sự tích” do “Tiên chỉ Vũ Văn Đức, Phụng Nghị đại phu, sao lục ở Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ” từ năm Giáp Tuất, niên hiệu Bảo Đại 9 (1934). Bản thần tích này chép rằng: chính Lý Nam đế đã sai quan Thái giám về làng Thanh Liệt, phong cho Phạm Tu làm “Long Biên hầu, thụy Đô Hồ, Bản cảnh thành hoàng” và thừa nhận làng Thanh Liệt, quê hương ông, là “Thanh mộc ấp” (ấp tắm gội-đất phong tặng).
Ở ngôi “Đình Ngoại”, có tên Ngoại, hẳn là vì vị trí đình ở rìa làng, hoặc là để phân biệt với “Đình Nội” ở giữa làng (thờ Chu Văn An), thuộc thôn Trung, còn có cả hai tấm bài vị, ghi rõ bậc “thượng đẳng thần” của “Đô Hồ Đại Thần”, và ghi nguyên hàng chữ: “Bản thổ Tiền Lý triều Long Biên hầu, Đô Hồ Đại vương thần vị”. Đó là nơi thờ chính, Đức Thánh Phạm Đô Tu của cả xã.
Phù hợp với điều này, ở hậu cung Đình Nội (mà không phải là Đình Ngoại) còn giữ được hai hòm sắc, trong đó, lẫn lộn với những sắc phong khác, là 10 đạo sắc phong của triều đình ngày xưa, có niên hiệu từ Cảnh Hưng nhà Lê đến Khải Định nhà Nguyễn, phong cho Đô Hồ Đại Thần (danh hiệu của triều Lê) và Đô Hồ Đại vương (danh hiệu của triều Nguyễn). Một sắc phong thời Tây Sơn (niên hiệu Cảnh Thịnh) cũng ghi danh hiệu: “Đô Hồ Đại Thần”.
Có một tình tiết thú vị, ghi nhận được ở lễ tiết hội làng Thanh Liệt, ấy là: hành trình của cuộc rước cỗ kiệu quý của làng, hiện để ở Đình Nội. Các vị cố lão của làng cho biết: Kiệu rước từ Đình Nội, nhưng lễ thì ở Đình Ngoại, và trước khi lễ ở đây, thì phải đi vòng sang thôn Vực của làng, và trình ở tòa Miếu Vực.
Tại sao như vậy? Người Thanh Liệt giải thích: vì thôn Vực mới chính là nơi sinh hạ cụ thể của Phạm Tu. Có người còn nói: tòa miếu Vực xây ngay trên nền nhà cũ của Phạm Tu (miếu này còn có một tên khác, rất “quân sự” là: Cửa Đồn). Và điều này-nơi sinh hạ của Phạm Tu-cũng phù hợp với một tín hiệu mà chỉ ở nơi đây mới có: song thân của Phạm Tu! Đó là các vị, với tên tuổi được lưu truyền cụ thể và chi tiết: “Phạm Thiều” (cha), “Lý Thị Trạch” (mẹ).
Những di tích tín ngưỡng, những chứng tích huyền kỳ, những lời kể truyền miệng... như thế, ở Thanh Liệt, làm thành một nguồn phát sóng mạnh, những tín hiệu văn hóa học-dân gian (Folklore) soi rọi vào hiện tượng và nhân vật lịch sử Phạm Tu-vì sống cách nay đến 15 thế kỷ, nên nhiều hiểu biết của chúng ta về người anh hùng còn chưa thật rõ ràng-những thông tin văn hóa dân gian từ Thanh Liệt thật có tác dụng của một nguồn sử liệu bổ trợ cho chính sử.
Vấn đề quê hương bản quán của vị tướng quân đầu triều, thời Lý Nam Đế nhờ vậy mà trở nên đã rõ ràng.
Cũng thế, những thông tin về sự ra đời (ngày 10 tháng ba năm Bính Thìn-476 sau Công Nguyên), về tuổi tác của một vị lão trượng, ngoại lục tuần mà vẫn hăng hái, hiên ngang, đứng dưới cờ Lý Nam Đế, lập nên những sự nghiệp và chiến công hiển hách đảm nhận những cương vị, trách nhiệm lớn lao và cuối cùng, hy sinh oanh liệt trong trận đánh lớn, chống quân xâm lược ở nơi có tòa thành đầu tiên và khai sinh cho đô thị Hà Nội cổ: Cửa sông Tô Lịch, ngày 20 tháng bảy năm Ất Sửu-545 sau Công Nguyên... những điều quan trọng, quí báu, cụ thể và sinh động như thế, trong cuộc đời và sự nghiệp của vị lão tướng quân Phạm Tu, đã được nguồn phát sóng văn hóa học dân gian ở Thanh Liệt cung cấp. Và Thanh Liệt xứng đáng với niềm tự hào về một quê hương văn võ song toàn: Võ là Phạm Tu (476-545) quê hương là thôn Vực; Văn là Chu Văn An (?-1370), quê mẹ, sinh hạ ông tại thôn Văn, cùng xã Thanh Liệt.
________
Ghi chú: Nội dung chính của bài này được đăng trong cuốn “Ngàn năm văn hóa đất Thăng Long” của Hồ Phương Lan, Nxb. Lao động, 2009. Trong cuốn sách có tôn vinh Tấm gương hy sinh của Lão tướng Phạm Tu đối với mọi thế hệ người cao tuổi Việt Nam.
PGS. TS. Bùi Xuân Đính hiện là Viện trưởng Viện Dân tộc cũng đã đề cập đến vấn đề đồng nhất khi viết về Lý Phục Man:
“Tên chính của ông là Phạm Tu – một võ tướng, một trụ cột của triều đình Lý Nam Đế. Ý kiến này hiện vẫn chưa được giới khoa học khẳng định một cách chắc chắn.”1
Những phát hiện sử học mới đây của Giáo sư Lê Văn Lan và Giáo sư Shiro Momoki (Đại học Osaka-Nhật Bản) cho biết, ông sinh năm 476 tại xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội và mất tại cửa sông Tô Lịch (Hà Nội) năm 545 sau Công nguyên.
“Trong lịch sử nước ta, ông là vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức”-đó là lời nhận định về Phạm Tu trong cuốn “Từ điển văn hóa Việt Nam” (Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, 1993).
“Một triều đình có tổ chức” ở đây, là triều đình của nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam Đế, cách nay đã 15 thế kỷ! Tuy nhiên, hẳn vì thời gian quá xa nên sử liệu gốc về ông, để lại cho đến nay, thật hết sức hiếm.
Trong bộ sử cổ nhất còn sót lại được đến nay là “Đại Việt sử lược”, giữa những trang dòng nói về Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân hồi thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên không có chữ nào chép về ông.
Đến bộ chính sử “Đại Việt sử ký toàn thư”, thì cũng chỉ có hai lần xuất hiện tên ông. Trong biên niên về năm Quý Hợi (543 sau Công Nguyên), ta thấy lần đầu tiên, tên Phạm Tu được chép trong văn cảnh như sau: “Mùa hạ, tháng tư, vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua (Lý Nam Đế) sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức”. Lần thứ hai, dưới cái tên mà bản dịch của Viện sử học (in năm 1967) viết là “Phan Tu”, ta thấy biên niên sử, năm Giáp Tý (544 sau Công nguyên), nói đến việc Phạm Tu được Lý Nam Đế cử đứng đầu hàng quan võ (cùng với Triệu Túc: thái phó, và Tinh Thiều: đứng đầu hàng quan văn) của triều đình Vạn Xuân.
Sử liệu gốc về “vị tướng quân đầu tiên của một triều đình có tổ chức” trong lịch sử rất lâu đời của nước ta, vẻn vẹn chỉ có thế.
Chính vì vậy mà việc nhận diện, nhận chân về Phạm Tu trở nên vừa khó khăn, mơ hồ, vừa mâu thuẫn, phức tạp.
Chẳng hạn như những dòng viết về ông sau đây, trong bộ “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 744): Quê làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội (nay là Hà Tây). Ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý, nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man, lại được vua gả công chúa Phương Dung cho... Mộ và đền thờ ông, nay hãy còn di tích tại quê ông ở làng Giá.
Như vậy, ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần là Lý Phục Man, được sách cổ “Việt điện u linh” chép từ đầu thế kỷ 14, và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết. Do đó, nảy sinh một vấn đề trước tiên là: Quê hương bản quán của Phạm Tu ở đâu? Bởi vì, trong khi “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” cho rằng Phạm Tu là người có quê ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây) thì, chẳng hạn như “Từ điển văn hóa Việt Nam” hoặc vừa đây, sách “Thành hoàng Việt Nam” (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997, tập II, tr. 565) đều khẳng định rằng: ông là người quê làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội; hoặc “quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội”.
Về thời gian mất của ông, thì có lẽ người ta chỉ biết căn cứ vào hai câu sau đây trong tập diễn ca thế kỷ 18 “Thiên Nam ngữ lục”.
Vua cùng tướng quân Phạm Tu
Vào Khuất Liêu động thác hư lên trời
Mà việc vua Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão (Khuất Liêu) thì được tính là vào năm 548, cho nên sách “Thành hoàng Việt Nam” mới chép về năm mất của Phạm Tu cũng là năm 548. Trong khi đó, nhiều tài liệu khác-trong đó có sách “Lịch sử Việt Nam, tập I” (Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 411) lại đều khẳng định là Phạm Tu hy sinh năm 545.
Cả về nơi mất của ông nữa, trong khi, chẳng hạn “Từ điển văn hóa Việt Nam”, hẳn là dựa theo “Thiên Nam ngữ lục” viết rằng Phạm Tu mất tại động Khuất Liêu (một địa danh, lại cũng từng được đoán định vị trí khá là khác nhau: hoặc ở miền tây Phú Thọ, hoặc ở phía nam Tuyên Quang) thì, sách “Hà Nội nghìn xưa” (Sở văn hóa thông tin Hà Nội, xuất bản 1975) lại khẳng định rằng, đó là “miền cửa sông Tô Lịch (trung tâm Hà Nội cổ)” (tr. 112).
Giữa những thông tin bộn bề trái ngược như thế về vị lão tướng quân họ Phạm ở thế kỷ 6, may thay, gần đây, đã có những công phu để bắt được sóng tín hiệu từ một trung tâm phát sóng rất có giá trị, ở một làng cổ ven đô Hà Nội: xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Có lẽ, người đầu tiên phát hiện và khai thác được nguồn tài liệu địa phương quan trọng ở đây, là học giả Vũ Tuân Sán (Chí Kiên). Nhiều thông tin đặc sắc về Phạm Tu, trước đây chưa mấy được biết đến, được ông công bố sớm trong sách “Danh nhân Hà Nội” (Hội văn nghệ Hà Nội, xuất bản 1973) để rồi sau đó, hợp tác với Giáo sư Trần Quốc Vượng viết thêm vào trong sách “Hà Nội nghìn xưa”, đã rọi nhiều tia sáng vào lớp mây mù đang vây phủ nhân vật lịch sử lớn, mà đến năm 1998 này đã là ngày giỗ lần thứ 1453.
Thế hệ những người họ Phạm, đang sống ngay tại xã Thanh Liệt cũng như ở khắp nơi: Hà Tây, Hà Tĩnh, Ninh Bình... và nội đô Hà Nội, lần theo sợi chỉ ẩn hiện trong suốt 15 thế kỷ lịch sử đã qua, để nối mình với nguồn cội, tổ tiên: Lão tướng quân Phạm Tu, đã tạo điều kiện để cho thêm một lần nữa, những thông tin, tín hiệu về một vì sao trên bầu trời lịch sử thế kỷ 6, phát đi từ quê hương Thanh Liệt, lại được hiển hiện.
Đầu tháng Bảy lịch Trăng, sắp đến ngày giỗ lần thứ 1452 (năm 1997) và chuẩn bị cho ngày giỗ lớn vào năm 2000 của Phạm Tu, chúng tôi cùng Giáo sư Shiro Momoki ở đại học tổng hợp Osaka (Nhật Bản) đã có thêm một dịp hành hương về xã Thanh Liệt.
Gần 8.000 con người sống trong ngôi làng rộng đến 4 km2 này, đều coi nơi đây chính là quê hương của Phạm Tu, mà họ kính cẩn gọi là Đức Thánh của làng, là Đô Hồ Đại vương, hoặc có nhắc đến tên, thì kính trọng gọi đầy đủ là Phạm Đô Tu.
Có thể hiểu những tên và danh hiệu này, khi đọc được ở đây, bản thần tích của làng, với tên gọi đầy đủ là: “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, thụy Đô Hồ Đại vương, thượng đẳng thần sự tích” do “Tiên chỉ Vũ Văn Đức, Phụng Nghị đại phu, sao lục ở Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ” từ năm Giáp Tuất, niên hiệu Bảo Đại 9 (1934). Bản thần tích này chép rằng: chính Lý Nam đế đã sai quan Thái giám về làng Thanh Liệt, phong cho Phạm Tu làm “Long Biên hầu, thụy Đô Hồ, Bản cảnh thành hoàng” và thừa nhận làng Thanh Liệt, quê hương ông, là “Thanh mộc ấp” (ấp tắm gội-đất phong tặng).
Ở ngôi “Đình Ngoại”, có tên Ngoại, hẳn là vì vị trí đình ở rìa làng, hoặc là để phân biệt với “Đình Nội” ở giữa làng (thờ Chu Văn An), thuộc thôn Trung, còn có cả hai tấm bài vị, ghi rõ bậc “thượng đẳng thần” của “Đô Hồ Đại Thần”, và ghi nguyên hàng chữ: “Bản thổ Tiền Lý triều Long Biên hầu, Đô Hồ Đại vương thần vị”. Đó là nơi thờ chính, Đức Thánh Phạm Đô Tu của cả xã.
Phù hợp với điều này, ở hậu cung Đình Nội (mà không phải là Đình Ngoại) còn giữ được hai hòm sắc, trong đó, lẫn lộn với những sắc phong khác, là 10 đạo sắc phong của triều đình ngày xưa, có niên hiệu từ Cảnh Hưng nhà Lê đến Khải Định nhà Nguyễn, phong cho Đô Hồ Đại Thần (danh hiệu của triều Lê) và Đô Hồ Đại vương (danh hiệu của triều Nguyễn). Một sắc phong thời Tây Sơn (niên hiệu Cảnh Thịnh) cũng ghi danh hiệu: “Đô Hồ Đại Thần”.
Có một tình tiết thú vị, ghi nhận được ở lễ tiết hội làng Thanh Liệt, ấy là: hành trình của cuộc rước cỗ kiệu quý của làng, hiện để ở Đình Nội. Các vị cố lão của làng cho biết: Kiệu rước từ Đình Nội, nhưng lễ thì ở Đình Ngoại, và trước khi lễ ở đây, thì phải đi vòng sang thôn Vực của làng, và trình ở tòa Miếu Vực.
Tại sao như vậy? Người Thanh Liệt giải thích: vì thôn Vực mới chính là nơi sinh hạ cụ thể của Phạm Tu. Có người còn nói: tòa miếu Vực xây ngay trên nền nhà cũ của Phạm Tu (miếu này còn có một tên khác, rất “quân sự” là: Cửa Đồn). Và điều này-nơi sinh hạ của Phạm Tu-cũng phù hợp với một tín hiệu mà chỉ ở nơi đây mới có: song thân của Phạm Tu! Đó là các vị, với tên tuổi được lưu truyền cụ thể và chi tiết: “Phạm Thiều” (cha), “Lý Thị Trạch” (mẹ).
Những di tích tín ngưỡng, những chứng tích huyền kỳ, những lời kể truyền miệng... như thế, ở Thanh Liệt, làm thành một nguồn phát sóng mạnh, những tín hiệu văn hóa học-dân gian (Folklore) soi rọi vào hiện tượng và nhân vật lịch sử Phạm Tu-vì sống cách nay đến 15 thế kỷ, nên nhiều hiểu biết của chúng ta về người anh hùng còn chưa thật rõ ràng-những thông tin văn hóa dân gian từ Thanh Liệt thật có tác dụng của một nguồn sử liệu bổ trợ cho chính sử.
Vấn đề quê hương bản quán của vị tướng quân đầu triều, thời Lý Nam Đế nhờ vậy mà trở nên đã rõ ràng.
Cũng thế, những thông tin về sự ra đời (ngày 10 tháng ba năm Bính Thìn-476 sau Công Nguyên), về tuổi tác của một vị lão trượng, ngoại lục tuần mà vẫn hăng hái, hiên ngang, đứng dưới cờ Lý Nam Đế, lập nên những sự nghiệp và chiến công hiển hách đảm nhận những cương vị, trách nhiệm lớn lao và cuối cùng, hy sinh oanh liệt trong trận đánh lớn, chống quân xâm lược ở nơi có tòa thành đầu tiên và khai sinh cho đô thị Hà Nội cổ: Cửa sông Tô Lịch, ngày 20 tháng bảy năm Ất Sửu-545 sau Công Nguyên... những điều quan trọng, quí báu, cụ thể và sinh động như thế, trong cuộc đời và sự nghiệp của vị lão tướng quân Phạm Tu, đã được nguồn phát sóng văn hóa học dân gian ở Thanh Liệt cung cấp. Và Thanh Liệt xứng đáng với niềm tự hào về một quê hương văn võ song toàn: Võ là Phạm Tu (476-545) quê hương là thôn Vực; Văn là Chu Văn An (?-1370), quê mẹ, sinh hạ ông tại thôn Văn, cùng xã Thanh Liệt.
________
Ghi chú: Nội dung chính của bài này được đăng trong cuốn “Ngàn năm văn hóa đất Thăng Long” của Hồ Phương Lan, Nxb. Lao động, 2009. Trong cuốn sách có tôn vinh Tấm gương hy sinh của Lão tướng Phạm Tu đối với mọi thế hệ người cao tuổi Việt Nam.
PGS. TS. Bùi Xuân Đính hiện là Viện trưởng Viện Dân tộc cũng đã đề cập đến vấn đề đồng nhất khi viết về Lý Phục Man:
“Tên chính của ông là Phạm Tu – một võ tướng, một trụ cột của triều đình Lý Nam Đế. Ý kiến này hiện vẫn chưa được giới khoa học khẳng định một cách chắc chắn.”1
PHẠM TU (486-545)
(Trong mục Danh nhân Hà Nội, đứng thứ nhất)
Phạm Tu sinh ra ở làng Quang Liệt (nay là Thanh Liệt-Thanh Trì). Ông là vị tướng tài có công bậc nhất trong việc giúp Lý Bí đuổi giặc Lương, lập nhà nước Vạn Xuân vào thế kỷ thứ 6.
Phạm Tu là một đô vật giỏi. Năm 541, bất bình trước ách thống trị tàn ác của nhà Lương, ông đã tập hợp trai làng chống lại. Năm sau, Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, ông đem quân gia nhập ngay và đi tiên phong đánh thành Long Biên, trị sở của bọn đô hộ. Tên thứ sử tham bạo phải xéo chạy. Đất nước giải phóng, ông xây lũy bên sông Tô để phòng vệ. Nhà Lương hai lần phản kích đều bị ông chặn đánh từ biên ải.
Tháng Giêng năm 544, Lý Bí lên ngôi, Phạm Tu được cử thống lĩnh binh quyền, dẹp các cát cứ địa phương, nên được vua ban tước Phụ Man tướng quân. Bởi vậy nhân dân còn gọi ông là Lý Phục Man. Trong lần quân Lương sang xâm lược lần thứ ba, ông hy sinh anh dũng trong một trận đánh ác liệt ở ngay cạnh dòng sông Tô quê hương.
Các triều sau sắc phong ông là Hộ quốc tế dân, Anh uy vĩ độ (có nghĩa là “Giúp nước cứu dân, anh hùng hào kiệt”).
Nguồn tin: Hà Nội Portal
________
Ghi chú: Theo thông tin ở trên thì Phạm Tu sinh năm 486, tước Phụ Man có thể do sai sót chế bản. Nội dung đồng nhất trên là sai do lấy thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở gắn cho Phạm Tu ở Thanh Liệt. Bài này dựa trên bài “Phạm Tu với nhà nước Vạn Xuân” của Đàm Hưng đăng trên báo Hà Nội mới ngày 11/9/1983.
Trang web Hà Nội Portal có đăng bài “Phạm Tu” của Vũ Tuân Sán lại không đồng nhất Phạm Tu với Lý Phục Man (xem tr. 44)
Phạm Tu sinh ra ở làng Quang Liệt (nay là Thanh Liệt-Thanh Trì). Ông là vị tướng tài có công bậc nhất trong việc giúp Lý Bí đuổi giặc Lương, lập nhà nước Vạn Xuân vào thế kỷ thứ 6.
Phạm Tu là một đô vật giỏi. Năm 541, bất bình trước ách thống trị tàn ác của nhà Lương, ông đã tập hợp trai làng chống lại. Năm sau, Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, ông đem quân gia nhập ngay và đi tiên phong đánh thành Long Biên, trị sở của bọn đô hộ. Tên thứ sử tham bạo phải xéo chạy. Đất nước giải phóng, ông xây lũy bên sông Tô để phòng vệ. Nhà Lương hai lần phản kích đều bị ông chặn đánh từ biên ải.
Tháng Giêng năm 544, Lý Bí lên ngôi, Phạm Tu được cử thống lĩnh binh quyền, dẹp các cát cứ địa phương, nên được vua ban tước Phụ Man tướng quân. Bởi vậy nhân dân còn gọi ông là Lý Phục Man. Trong lần quân Lương sang xâm lược lần thứ ba, ông hy sinh anh dũng trong một trận đánh ác liệt ở ngay cạnh dòng sông Tô quê hương.
Các triều sau sắc phong ông là Hộ quốc tế dân, Anh uy vĩ độ (có nghĩa là “Giúp nước cứu dân, anh hùng hào kiệt”).
Nguồn tin: Hà Nội Portal
________
Ghi chú: Theo thông tin ở trên thì Phạm Tu sinh năm 486, tước Phụ Man có thể do sai sót chế bản. Nội dung đồng nhất trên là sai do lấy thông tin về Lý Phục Man ở Yên Sở gắn cho Phạm Tu ở Thanh Liệt. Bài này dựa trên bài “Phạm Tu với nhà nước Vạn Xuân” của Đàm Hưng đăng trên báo Hà Nội mới ngày 11/9/1983.
Trang web Hà Nội Portal có đăng bài “Phạm Tu” của Vũ Tuân Sán lại không đồng nhất Phạm Tu với Lý Phục Man (xem tr. 44)
SỰ TÍCH TƯỚNG CÔNG LÝ PHỤC MAN
(Theo cuốn “Văn bia Quán Giá”, Nguyễn Bá Hân, Nxb. Thế giới, 1995)
Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu kể về thân thế sự nghiệp của Đại vương nên trong tài liệu này chúng tôi xin in kèm theo bản Sự tích Tướng công Lý Phục Man đang được lưu tại Phòng Bảo tàng Quán Giá (Xã Yên Sở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây).
SỰ TÍCH TƯỚNG CÔNG LÝ PHỤC MAN
Tướng công Lý Phục Man có họ tên thực là Phạm Tu, Người sinh trong một gia đình yêu nước ở xóm Lã Xá, Giáp Cảo Tây (sau đổi thành Quả Tây) thuộc làng Cổ Sở (sau đổi thành 2 xã Yên Sở và Đắc Sở của Hoài Đức, Hà Nội) vào những thập kỷ đầu của thế kỷ thứ 6 sau công nguyên (Khoảng từ năm 505 đến 515).
Ngay từ thuở thiếu thời, cậu bé Phạm Tu đã tỏ ra là người khác thường. Hàng ngày thích trò chơi cưỡi ngựa, bắn cung tập trận. Bằng cờ chuối bông lau, cậu cùng các bạn nhỏ trong xóm chia thành quân ta quân địch dàn trận để dành thắng bại.
Lớn lên phải sống cảnh người dân mất nước và phải chứng kiến bao sự bất công tàn bạo của bọn phong kiến xâm lược nhà Lương (bên Trung Quốc) đối với nhân dân ta, tinh thần bất khuất, ý chí căm thù kẻ địch ngày càng sôi sục.
Nuôi chí lớn đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi, chàng thanh niên đất Cổ Sở ấy đã cùng những người tâm huyết trong vùng bí mật vào rừng ngày đêm luyện tập võ nghệ. Vốn có sức khỏe và lòng dũng cảm, chàng trai họ Phạm đã thuần hóa được hàng chục voi rừng, biến chúng thành đội quân để sau ra trận.
Tài thao lược ý chí anh hùng của người thanh niên quê Cổ Sở sớm nổi danh một vùng, thu hút hàng trăm trái tim yêu nước thương nòi về đây kết bạn, bàn mưu tính kế làm khởi nghĩa đánh đuổi kẻ thù. Nghĩa quân được tuyển chọn những trai tráng trong vùng. Bằng sự khêu gợi lòng yêu nước của tuổi trẻ kết hợp với quyền lợi vật chất và những chiến lợi phẩm dành lại từ trong tay giặc đem chia đều cho nhân dân, nên đội quân mỗi ngày một đông. Chẳng mấy chốc thanh thế của nghĩa quân đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Nhiều đồn giặc bị phá tan, nhiều kho lương thực được dành lại. Chủ tướng Phạm Tu nổi lên như một trang hào kiệt đất Sơn Tây. Cả một dải từ Đỗ Động đến Đường lâm đã sạch bóng quân thù.
Cùng buổi ấy ở nhiều vùng của đất nước cũng còn có nhiều người nổi lên chống lại quân Lương. Trong số đó, người được Phạm Tu kính phục hơn cả là Lý Bôn (tức Lý Bí) quê ở Long Hưng Thái Bình. Đầu năm Tân Dậu (541), tướng Phạm Tu đã tìm gặp Lý Bôn để liên kết lực lượng cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung. Vốn đã biết tiếng từ lâu, nay lại thấy người, Lý Bôn hiểu Phạm Tu là người tài giỏi, liền phong cho chức Đỗ Động tướng quân cho theo việc binh.
Anh hùng hội ngộ, tướng Phạm Tu gặp được Lý Bôn như cá gặp nước, như rồng gặp mây. Người anh hùng đất Cổ Sở ấy đã đem tài thao lược của mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Trong dựng và giữ nước, tướng Phạm Tu đã lập nhiều chiến công hiển hách, đánh Bắc dẹp Nam. Đặc biệt trong trận đánh quân Lâm Ấp (tức Chiêm Thành) khi chúng vào xâm lấn Cửu Đức mùa thu năm Quý Hợi (543). Lúc này vừa quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi chấm dứt thời kỳ đô hộ 500 năm của các triều đại phong kiến xâm lược phương Bắc. Biết ta còn phải lo bao việc trong dựng nước, bọn vua quan Lâm Ấp đã thừa cơ vào xâm lấn bờ cõi phía Nam. Tin cấp báo về đến Lý Bôn và các bạn chiến đấu của ông. Mọi người đều nói: “Với kẻ thù hung hãn như vậy phi Đỗ Động tướng quân không ai có thể đương đầu với giặc này”. Tin vào khả năng xuất chúng của người tướng trẻ, Lý Bôn đã nghe theo lời bàn cử tướng Phạm Tu vào Nam dẹp giặc.
Đúng chỉ một lần ra quân người anh hùng đất Sơn Tây ấy đã đuổi được quân Lâm ấp ra khỏi bờ cõi mang lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân địa phương. Nghe tin thắng trận báo về Lý Bôn đã hết lời khen ngợi. Ông nói: “Tre già mới biết dao sắc, có gặp lúc nguy nan mới biết người tài giỏi. Nay Đỗ Động tướng quân bắn vài tên mà phá tan quân giặc dữ, thật là một hào kiệt đất Sơn Tây, dẫu bậc danh tướng đời xưa cũng không hơn được, cần phải trọng thưởng”. Ông đã phong cho tướng Phạm Tu tước hiệu Phục Man (ý nói dẹp giặc Man). Cho đổi họ Lý và gả con gái cho (Công chúa Phương Dung). Từ đó mọi người không gọi tướng Phạm Tu là Đỗ Động tướng quân mà gọi bằng cái tên đầy vẻ tôn kính là Lý Phục Man tướng quân.
Đất nước đã sạch bóng quân thù; đầu năm Giáp Tý (544) Lý Bôn lên ngôi vua lập ra nhà Tiền Lý. Đặt tên nước là Vạn Xuân, có triều đình hai ban văn võ. Là người có nhiều công lớn phò mã Phạm Tu được vua phong cho chức Thái Úy đứng đầu ban võ.
Vốn là người giàu lòng yêu nước thương dân, lại được tham dự mọi việc triều chính nên Thái Úy đã mạnh dạn can ngăn vua, khiển trách kẻ có lỗi, trừng trị kẻ lộng quyền làm điều xằng bậy ức hiếp nhân dân, nên trong ngoài ai cũng ca ngợi công đức Lý Phục Man tướng công.
Đầu năm Ất Sửu (545), bọn phong kiến nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên mang quân sang hòng đặt ách đô hộ nước ta một lần nữa. Trận thử sức đầu tiên với đội quân xâm lược ở thành Chu Diên (Hải Hưng), quân ta bị thua. Biết chưa đủ sức triều đình nhà Lý đành phải lui quân về sông Tô Lịch xây đắp thành lũy (Hà Nội) để giữ thế thủ. Để bảo toàn lực lượng đánh địch lâu dài, vua Lý bèn cử Phục Man tướng công Phạm Tu ở lại giữ thành. Còn nhà vua đem triều đình về Khuất Liêu.
Chỉ qua mấy tháng, mùa thu năm Ất Sửu (545) tướng giặc Trần Bá Tiên lại đem quân đến vây đánh thành Tô Lịch. Trong một trận giao tranh với Trần Bá Tiên, tướng công đã anh dũng hy sinh tại trận tiền. Hai tùy tướng họ Trương đã mang được thi hài về quê an táng tại khu Hồ Mã.
Bằng lòng biết ơn và tiếc thương vô hạn người con trung hiếu của quê hương, vị anh hùng dân tộc, nhân dân đã đem cây xanh trồng xung quanh ngôi mộ, lập đền thờ ngày đêm tưởng niệm. Cây xanh mỗi ngày một thêm lan rộng, Đền mỗi thời một xây to thành rừng Giá và Quán Giá hiện nay.
Cùng với quê hương tướng công còn có 74 làng xã trong cả nước từ Hà Tĩnh trở ra lập đền thờ vị anh hùng dân tộc ấy. Kể từ khi đất nước dành được quyền tự chủ, các vương triều xưa như Tiền Lê, Hậu Lý, Hậu Lê, Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn đã phong tặng tới 60 đạo sắc gồm gần 300 chữ đẹp. Đó chính là sự đánh giá của lịch sử và nhân dân về công lao sự nghiệp của tướng công vậy.
(Sự tích theo Thần phả, văn bia và sử).
Để giúp bạn đọc có thêm tư liệu kể về thân thế sự nghiệp của Đại vương nên trong tài liệu này chúng tôi xin in kèm theo bản Sự tích Tướng công Lý Phục Man đang được lưu tại Phòng Bảo tàng Quán Giá (Xã Yên Sở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây).
SỰ TÍCH TƯỚNG CÔNG LÝ PHỤC MAN
Tướng công Lý Phục Man có họ tên thực là Phạm Tu, Người sinh trong một gia đình yêu nước ở xóm Lã Xá, Giáp Cảo Tây (sau đổi thành Quả Tây) thuộc làng Cổ Sở (sau đổi thành 2 xã Yên Sở và Đắc Sở của Hoài Đức, Hà Nội) vào những thập kỷ đầu của thế kỷ thứ 6 sau công nguyên (Khoảng từ năm 505 đến 515).
Ngay từ thuở thiếu thời, cậu bé Phạm Tu đã tỏ ra là người khác thường. Hàng ngày thích trò chơi cưỡi ngựa, bắn cung tập trận. Bằng cờ chuối bông lau, cậu cùng các bạn nhỏ trong xóm chia thành quân ta quân địch dàn trận để dành thắng bại.
Lớn lên phải sống cảnh người dân mất nước và phải chứng kiến bao sự bất công tàn bạo của bọn phong kiến xâm lược nhà Lương (bên Trung Quốc) đối với nhân dân ta, tinh thần bất khuất, ý chí căm thù kẻ địch ngày càng sôi sục.
Nuôi chí lớn đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi, chàng thanh niên đất Cổ Sở ấy đã cùng những người tâm huyết trong vùng bí mật vào rừng ngày đêm luyện tập võ nghệ. Vốn có sức khỏe và lòng dũng cảm, chàng trai họ Phạm đã thuần hóa được hàng chục voi rừng, biến chúng thành đội quân để sau ra trận.
Tài thao lược ý chí anh hùng của người thanh niên quê Cổ Sở sớm nổi danh một vùng, thu hút hàng trăm trái tim yêu nước thương nòi về đây kết bạn, bàn mưu tính kế làm khởi nghĩa đánh đuổi kẻ thù. Nghĩa quân được tuyển chọn những trai tráng trong vùng. Bằng sự khêu gợi lòng yêu nước của tuổi trẻ kết hợp với quyền lợi vật chất và những chiến lợi phẩm dành lại từ trong tay giặc đem chia đều cho nhân dân, nên đội quân mỗi ngày một đông. Chẳng mấy chốc thanh thế của nghĩa quân đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Nhiều đồn giặc bị phá tan, nhiều kho lương thực được dành lại. Chủ tướng Phạm Tu nổi lên như một trang hào kiệt đất Sơn Tây. Cả một dải từ Đỗ Động đến Đường lâm đã sạch bóng quân thù.
Cùng buổi ấy ở nhiều vùng của đất nước cũng còn có nhiều người nổi lên chống lại quân Lương. Trong số đó, người được Phạm Tu kính phục hơn cả là Lý Bôn (tức Lý Bí) quê ở Long Hưng Thái Bình. Đầu năm Tân Dậu (541), tướng Phạm Tu đã tìm gặp Lý Bôn để liên kết lực lượng cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung. Vốn đã biết tiếng từ lâu, nay lại thấy người, Lý Bôn hiểu Phạm Tu là người tài giỏi, liền phong cho chức Đỗ Động tướng quân cho theo việc binh.
Anh hùng hội ngộ, tướng Phạm Tu gặp được Lý Bôn như cá gặp nước, như rồng gặp mây. Người anh hùng đất Cổ Sở ấy đã đem tài thao lược của mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Trong dựng và giữ nước, tướng Phạm Tu đã lập nhiều chiến công hiển hách, đánh Bắc dẹp Nam. Đặc biệt trong trận đánh quân Lâm Ấp (tức Chiêm Thành) khi chúng vào xâm lấn Cửu Đức mùa thu năm Quý Hợi (543). Lúc này vừa quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi chấm dứt thời kỳ đô hộ 500 năm của các triều đại phong kiến xâm lược phương Bắc. Biết ta còn phải lo bao việc trong dựng nước, bọn vua quan Lâm Ấp đã thừa cơ vào xâm lấn bờ cõi phía Nam. Tin cấp báo về đến Lý Bôn và các bạn chiến đấu của ông. Mọi người đều nói: “Với kẻ thù hung hãn như vậy phi Đỗ Động tướng quân không ai có thể đương đầu với giặc này”. Tin vào khả năng xuất chúng của người tướng trẻ, Lý Bôn đã nghe theo lời bàn cử tướng Phạm Tu vào Nam dẹp giặc.
Đúng chỉ một lần ra quân người anh hùng đất Sơn Tây ấy đã đuổi được quân Lâm ấp ra khỏi bờ cõi mang lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân địa phương. Nghe tin thắng trận báo về Lý Bôn đã hết lời khen ngợi. Ông nói: “Tre già mới biết dao sắc, có gặp lúc nguy nan mới biết người tài giỏi. Nay Đỗ Động tướng quân bắn vài tên mà phá tan quân giặc dữ, thật là một hào kiệt đất Sơn Tây, dẫu bậc danh tướng đời xưa cũng không hơn được, cần phải trọng thưởng”. Ông đã phong cho tướng Phạm Tu tước hiệu Phục Man (ý nói dẹp giặc Man). Cho đổi họ Lý và gả con gái cho (Công chúa Phương Dung). Từ đó mọi người không gọi tướng Phạm Tu là Đỗ Động tướng quân mà gọi bằng cái tên đầy vẻ tôn kính là Lý Phục Man tướng quân.
Đất nước đã sạch bóng quân thù; đầu năm Giáp Tý (544) Lý Bôn lên ngôi vua lập ra nhà Tiền Lý. Đặt tên nước là Vạn Xuân, có triều đình hai ban văn võ. Là người có nhiều công lớn phò mã Phạm Tu được vua phong cho chức Thái Úy đứng đầu ban võ.
Vốn là người giàu lòng yêu nước thương dân, lại được tham dự mọi việc triều chính nên Thái Úy đã mạnh dạn can ngăn vua, khiển trách kẻ có lỗi, trừng trị kẻ lộng quyền làm điều xằng bậy ức hiếp nhân dân, nên trong ngoài ai cũng ca ngợi công đức Lý Phục Man tướng công.
Đầu năm Ất Sửu (545), bọn phong kiến nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên mang quân sang hòng đặt ách đô hộ nước ta một lần nữa. Trận thử sức đầu tiên với đội quân xâm lược ở thành Chu Diên (Hải Hưng), quân ta bị thua. Biết chưa đủ sức triều đình nhà Lý đành phải lui quân về sông Tô Lịch xây đắp thành lũy (Hà Nội) để giữ thế thủ. Để bảo toàn lực lượng đánh địch lâu dài, vua Lý bèn cử Phục Man tướng công Phạm Tu ở lại giữ thành. Còn nhà vua đem triều đình về Khuất Liêu.
Chỉ qua mấy tháng, mùa thu năm Ất Sửu (545) tướng giặc Trần Bá Tiên lại đem quân đến vây đánh thành Tô Lịch. Trong một trận giao tranh với Trần Bá Tiên, tướng công đã anh dũng hy sinh tại trận tiền. Hai tùy tướng họ Trương đã mang được thi hài về quê an táng tại khu Hồ Mã.
Bằng lòng biết ơn và tiếc thương vô hạn người con trung hiếu của quê hương, vị anh hùng dân tộc, nhân dân đã đem cây xanh trồng xung quanh ngôi mộ, lập đền thờ ngày đêm tưởng niệm. Cây xanh mỗi ngày một thêm lan rộng, Đền mỗi thời một xây to thành rừng Giá và Quán Giá hiện nay.
Cùng với quê hương tướng công còn có 74 làng xã trong cả nước từ Hà Tĩnh trở ra lập đền thờ vị anh hùng dân tộc ấy. Kể từ khi đất nước dành được quyền tự chủ, các vương triều xưa như Tiền Lê, Hậu Lý, Hậu Lê, Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn đã phong tặng tới 60 đạo sắc gồm gần 300 chữ đẹp. Đó chính là sự đánh giá của lịch sử và nhân dân về công lao sự nghiệp của tướng công vậy.
(Sự tích theo Thần phả, văn bia và sử).
VÕ TƯỚNG PHẠM TU
Quê quán: Yên Sở-Hoài Đức-thành phố Hà Nội
Thời kỳ: Tiền Lý (Lý Nam Đế)
Năm sinh: Bính Thìn-476; Năm mất: Ất Sửu-545
Võ tướng Phạm Tu đời Tiền Lý (Lý Nam Đế), quê ở làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Năm Tân Dậu (541), ông giúp Lý Bôn chống nhà Lương, đuổi được Thứ sử Tiêu Tư tàn ác. Ông đóng quân giữ thành Long Biên, cùng với Tinh Thiều và Triệu Túc sửa sang mọi việc, giúp Lý Bôn dựng nên nhà Tiền Lý.
Năm Quý Hợi (543), quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) xâm chiếm, ông đánh dẹp được. Trước đó năm Nhâm Tuất (542), Lương Võ Đế sai Thứ sử Châu Tân là Lư Tử Hùng, Thứ sử Châu Cao là Tôn Quýnh sang xâm lược nước ta, ông cũng đánh lui quân giặc. Ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý, nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man; và được vua gả Công chúa Phương Dung cho.
Năm Ất Sửu (545), nhà Lương lại kéo quân sang đánh phá, ông chống giặc tại thành Tô Lịch (Hà Nội xưa) được một thời gian nhưng vì tuổi cao sức yếu, thế giặc mạnh nên ông tử trận, hưởng thọ 69 tuổi.
Nguồn tin: www.vietgle.vn
Đây là tư liệu mà phần đồng nhất như cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” chủ biên Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Nxb. KHXH, 1991. Nội dung đầy đủ về Phạm Tu có trong cuốn sách phát hành rộng rãi xuất hiện việc đồng nhất ở trang 744 như sau:
PHẠM TU (- Â. sửu 545)
Võ tướng đời Tiền Lí (Lý Nam đế), quê l. Giá, thuộc x. Yên Sở, h. Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội.
Năm T. dậu 541, ông giúp Lí Bôn chống giặc nhà Lương, đuổi được Thứ sử Tiêu Tư tàn ác, ông đóng quân giữ thành Long Biên, cùng với Tinh Thiều và Triệu Túc sửa sang mọi việc, giúp Lí Bôn dựng nên nhà Tiền Lí.
Năm Q. hợi 543, quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) xâm chiếm, ông đánh dẹp được. Trước đó (N. tuất 542) Lương Võ Đế sai Thứ sử Châu Tân là Lư Tử Hùng, Thứ sử Châu Cao là Tôn Quýnh sang xâm lược, ông cũng đã đánh lui quân giặc. Ông được vua Lí phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lí, nên cũng gọi là Lí Tu hay Lí Phục Man; lại được vua gả Công chúa Phương Dung cho.
Năm Â. sửu 545, giặc Lương lại kéo sang đánh phá, ông chống nhau với giặc tại thành Tô Lịch (Hà Nội xưa) chết tại trận.
Mộ và đền thờ ông nay hãy còn di tích tại quê hương ở l. Giá.
Trang web www.vietgle.vn không thống nhất khi đăng về làng cổ An Cước có nêu rõ: “Hội An Cước với sự tôn vinh vị tướng Lôi Công thời Lý Nam Đế là một trang sử đẹp thời kỳ dựng nước Vạn Xuân, mà bấy lâu nay người ta chỉ biết đến tướng Phạm Tu ở Hà Nội và Lý Phục Man ở Hà Tây.”
*
Còn có một số trang web có thể hiện việc đồng nhất nhưng không trích dẫn nguồn tư liệu sử dụng. Ví dụ thông tin ở trang http://www.binhthuan.gov.vn/ viết về Đình Yên Sở như sau:
… Đình thờ Phạm Tu hay Lý Phục Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam Đế (541-548).
Có lẽ đây là thông tin trích từ cuốn Đình Việt Nam (1998) của Hà Văn Tấn?
Thời kỳ: Tiền Lý (Lý Nam Đế)
Năm sinh: Bính Thìn-476; Năm mất: Ất Sửu-545
Võ tướng Phạm Tu đời Tiền Lý (Lý Nam Đế), quê ở làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Năm Tân Dậu (541), ông giúp Lý Bôn chống nhà Lương, đuổi được Thứ sử Tiêu Tư tàn ác. Ông đóng quân giữ thành Long Biên, cùng với Tinh Thiều và Triệu Túc sửa sang mọi việc, giúp Lý Bôn dựng nên nhà Tiền Lý.
Năm Quý Hợi (543), quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) xâm chiếm, ông đánh dẹp được. Trước đó năm Nhâm Tuất (542), Lương Võ Đế sai Thứ sử Châu Tân là Lư Tử Hùng, Thứ sử Châu Cao là Tôn Quýnh sang xâm lược nước ta, ông cũng đánh lui quân giặc. Ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý, nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man; và được vua gả Công chúa Phương Dung cho.
Năm Ất Sửu (545), nhà Lương lại kéo quân sang đánh phá, ông chống giặc tại thành Tô Lịch (Hà Nội xưa) được một thời gian nhưng vì tuổi cao sức yếu, thế giặc mạnh nên ông tử trận, hưởng thọ 69 tuổi.
Nguồn tin: www.vietgle.vn
Đây là tư liệu mà phần đồng nhất như cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” chủ biên Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Nxb. KHXH, 1991. Nội dung đầy đủ về Phạm Tu có trong cuốn sách phát hành rộng rãi xuất hiện việc đồng nhất ở trang 744 như sau:
PHẠM TU (- Â. sửu 545)
Võ tướng đời Tiền Lí (Lý Nam đế), quê l. Giá, thuộc x. Yên Sở, h. Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội.
Năm T. dậu 541, ông giúp Lí Bôn chống giặc nhà Lương, đuổi được Thứ sử Tiêu Tư tàn ác, ông đóng quân giữ thành Long Biên, cùng với Tinh Thiều và Triệu Túc sửa sang mọi việc, giúp Lí Bôn dựng nên nhà Tiền Lí.
Năm Q. hợi 543, quân Lâm Ấp (Chiêm Thành) xâm chiếm, ông đánh dẹp được. Trước đó (N. tuất 542) Lương Võ Đế sai Thứ sử Châu Tân là Lư Tử Hùng, Thứ sử Châu Cao là Tôn Quýnh sang xâm lược, ông cũng đã đánh lui quân giặc. Ông được vua Lí phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lí, nên cũng gọi là Lí Tu hay Lí Phục Man; lại được vua gả Công chúa Phương Dung cho.
Năm Â. sửu 545, giặc Lương lại kéo sang đánh phá, ông chống nhau với giặc tại thành Tô Lịch (Hà Nội xưa) chết tại trận.
Mộ và đền thờ ông nay hãy còn di tích tại quê hương ở l. Giá.
Trang web www.vietgle.vn không thống nhất khi đăng về làng cổ An Cước có nêu rõ: “Hội An Cước với sự tôn vinh vị tướng Lôi Công thời Lý Nam Đế là một trang sử đẹp thời kỳ dựng nước Vạn Xuân, mà bấy lâu nay người ta chỉ biết đến tướng Phạm Tu ở Hà Nội và Lý Phục Man ở Hà Tây.”
*
Còn có một số trang web có thể hiện việc đồng nhất nhưng không trích dẫn nguồn tư liệu sử dụng. Ví dụ thông tin ở trang http://www.binhthuan.gov.vn/ viết về Đình Yên Sở như sau:
… Đình thờ Phạm Tu hay Lý Phục Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam Đế (541-548).
Có lẽ đây là thông tin trích từ cuốn Đình Việt Nam (1998) của Hà Văn Tấn?
DANH TƯỚNG PHẠM TU-LÝ PHỤC MAN LÀ MỘT HAY HAI NGƯỜI
Bài đăng trên Thông báo Hán Nôm 2009 của Viện NC Hán Nôm. Đây là tư liệu do chính tác giả chuyển cho chúng tôi để giới thiệu với bạn đọc. Chân thành cám ơn PGS. TS. Trương Sỹ Hùng. Tuy nhiên chúng tôi thấy có một số vấn đề chưa hợp lý (các chú thích chữ cái a-k) nên có bài góp ý ở trang 79.
PGS. TS. Trương Sỹ Hùng
Viện NC Đông Nam Á
Danh tướng Phạm Tu đã được lịch sử ca ngợi, đánh giá cao ngay từ khi ông còn tại thế. Một con người đã từng có nhiều cống hiến, hy sinh vì độc lập dân tộc, khi vào cõi vĩnh hằng thì càng ngày càng được tôn vinh ghi nhớ, nhưng có lẽ do tài liệu thất lạc, hỏa hoạn chiến tranh, thời gian bào mòn đến mức hư nát... khiến cho hành trạng cuộc đời, sự nghiệp của ông bị mai một. Tuy nhiên, với tất cả những tư liệu còn lại ngày nay giới nghiên cứu vẫn phục dựng được những nét cơ bản về ông, với những danh xưng Đỗ Động tướng quân, Lý Phục Man tướng quân và sau khi qua đời ông trở thành đức thánh Giá, một cách kiêng gọi tên húy, gắn danh thần với địa danh kẻ Giá, rộng hơn nữa là Thiên Nam thánh như vua Lý Thần Tông ban tặng. Khi vua Trần Nhân Tông phong sắc cho Phạm Tu là Chứng An đại vương (1285) thì dân chúng lại kêu cầu vắn tắt tên ông là đức Đại vương. Như thế mỗi tên gọi của ông đều có một ý nghĩa lịch sử không chỉ đối với cá nhân ông, dòng tộc ông. Theo thống kê của Nguyễn Bá Hân(1), từ thời Tiền Lý đến thời Nguyễn, các triều đại vua chúa Việt Nam đã ban tặng danh thần Lý Phục Man gần 300 mỹ tự (chữ đẹp) trong 60 lần phong sắc và hiện có 74 làng xã ở gần khắp các tỉnh phía bắc, từ Hà Tĩnh trở ra đã lập đền thờ ông. Danh tướng Lý Phục Man đối với non sông đất nước với dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử-kể từ khi ông xuất hiện rồi đi vào cõi vĩnh hằng-đều được các triều đại ghi nhận, tăng huy, tôn thờ ở vị trí thánh nhân. Đúng như bản văn khắc Cổ tích từ bi (古跡祠碑), dựng năm Vĩnh Tộ thứ hai (1620) đã viết:“嘗喟有功於國有功於民人追而嗣之厚之至也”( thường vị hữu công ư quốc hữu công ư dân nhân truy nhi tự chi hậu chi chí dã) nghĩa là: “Bình thường người ta vẫn nói, người có công với dân với nước thì được người đời tìm lại để tôn thờ, mãi mãi ghi nhớ cho đời sau.”
Khoảng thời gian từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX dù đất nước có biến động thăng trầm đến mấy, tính danh Lý Phục Man vẫn ngời sáng trong các trang quốc sử, nơi đền miếu tôn thờ và trong các nghi thức tín ngưỡng, lễ hội nhằm mục đích tôn vinh, ghi nhớ công ơn theo phong tục cổ truyền của người Việt. Vì thế, gần mười lăm thế kỷ đã trôi qua, việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Phạm Tu-Lý Phục Man vẫn đang còn cấp thiết, sao cho những trang vàng chói lọi lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ do tổ tiên gây dựng được toàn vẹn, ngày mỗi ngày thêm vẻ vang, giầu đẹp.
Lý Tế Xuyên tác gia thời Lý-Trần trong sách Việt điện u linh, khi viết về Triệu Việt vương và Lý Nam đế đã chỉ rõ, thời thuộc nhà Lương nhân dân ta rất căm phẫn chế độ hà khắc của chính quyền đô hộ, “rồi nhân tên thứ sử Vũ Lâm hầu Tiêu Tư quá hà khắc tàn bạo, việc hành chính mất lòng người, dân chúng ngấm ngầm tính kế chống lại. Khi đó Lý Bôn (một cách phiên tên khác của Lý Bí, sau xưng là Lý Nam đế-TSH chú thêm) coi giữ quân ở châu Cửu Đức liên kết hào kiệt chín huyện, khí giới tinh nhuệ, cùng nhau khởi binh đánh cho thứ sử Tiêu Tư phải chạy về Quảng Châu. Lý Bôn đem quân đóng ở châu thành. Đúng lúc ấy, người Lâm ấp đến cướp đất Nhật Nam. Lý Bôn sai tướng Phạm Tu, đánh giặc ở Cửu Đức thu thắng lợi lớn, quân giặc tan hết, ông liền xưng là Việt vương, đặt trăm chức quan, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.”(2) Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục miêu tả chi tiết “Lý Bôn tài kiêm văn võ làm quan triều Lương... vì bất đắc chí nên về Thái Bình khởi binh. Tù trưởng huyện Chu Diên là Triệu Túc cũng đem quân theo Lý Bôn. Tiêu Tư biết rõ việc ấy, đem tiền đút lót cho Lý Bôn rồi chạy về Quảng Châu. Lý Bôn liền giữ thành Long Biên.”(3) Cùng lúc đó, Phạm Tu cũng tập hợp lực lượng, huấn luyện một đạo quân, đánh đuổi giặc Lương ở vùng Đỗ Động Đường Lâm đã nổi tiếng từ lâu. Khi Lý Bôn lấy được thành Long Biên, xưng vương, tướng Phạm Tu hòa nhập lực lượng, dấy theo cờ nghĩa.
Trở lại với cách làm tuyển tập thần tích Đại Việt, Lý Tế Xuyên đã dẫn sách Sử ký của Đỗ Thiện viết về Phạm Tu, lúc này với tư cách là thần Lý Phục Man báo mộng cho vua Trần Nhân Tông. Chuyện kể, đời vua Lý Thái Tổ, nhân dịp đi quan sát địa phương, “nhà vua đến bến Cổ Sở, trông thấy phong cảnh núi sông rất đẹp, tâm thần nhà vua cảm xúc mới rót một ly rượu xuống dòng sông lớn mà vái rằng:
-Trẫm xem nơi đây thủy tú sơn kỳ khác hẳn mọi phương, nếu có linh hồn của những trang nhân kiệt, thì xin hãy nhận lễ ta dâng hiến.
Rồi ra đêm ấy, nhà vua mộng thấy một dị nhân cao lớn vạm vỡ, mặt hổ râu rồng, y phục trang nghiêm, khăn giày rành rạnh, đến cúi đầu lạy hai lần và tâu rằng:
-Thần vốn là người làng này, họ Lý tên Phục Man, đã giúp Lý Nam đế và làm tướng quân: nhờ lòng trung liệt mà đã nổi danh, nên được cho trấn thủ hai dải sơn hà Đỗ Động và Đường Lâm: đám mọi Lào đều sợ, không dám xúc phạm, hóa ra cả một phường đều yên ổn. Đến khi thần thác, đức thượng đế chấm lòng trung ấy, nên cho thần giữ chức như cũ. Cứ xin trình rõ vài điều mạo muội, hầu mong thánh thượng nghe qua. Xưa kia, thuở nhà Đường sắp làm vua, thần thường đem binh theo Khâu Hòa phá được nghịch tặc là Ninh Trường Chân ở cửa Giáp Sơn, qua đời vua Túc Tông lại phá được giặc Đại Thực Ba Tư ở cửa Thần Thạch, sang đời vua Đại Tông lại phá được giặc Côn Lôn Chà Và ở Chu Diên. Lại khi Cao vương phá nước Nam Chiếu, với lúc Ngô tiên chúa phá quân Nam Hán, Lê Đại Hành cả phá Tống binh, mỗi lần xuất quân chinh phạt, thần luôn luôn ở trên không mù mịt đã mang quỷ binh ám trợ kết cuộc đều có công cả. Thần lại đã từng cầm quân binh quỉ thần, dâng mệnh thiên đế, phá được giặc Chiêm Thành ở trấn Giáp Sơn. Đến khi thần mệnh một, linh hồn chẳng tan, thôn dân kính mến, lại sợ không người phòng thủ để ngừa bọn ngoại Lào cướp bóc, nhân thế mới lập đền thờ phụng. Bởi vậy thần còn được dịp nương bóng mà phảng phất trong khoảng trời mây. Hễ khi nào có dùng binh, thì thần lại ám hộ từ trên không: bọn nghịch tặc vào cướp đều bị ngăn chống cả. Hôm nay gặp bệ hạ loan giá quang lâm, thần riêng đến xin bái yết. Đoạn rồi ông có ngâm thơ rằng:
Thiên hạ toàn mông muội
Cô vi ẩn thanh danh
Trung nguyên yết nhật nguyệt
Quang diệu thị chân hình.
Nghĩa là:
Người đời thường sao nhãng
Nên ta ẩn thanh danh
Giữa trời theo ngày tháng
Làm rạng rỡ chân linh.
Dứt lời thì không còn thấy đâu nữa. Nhà vua chưa kịp đối đáp; bỗng nhiên giật mình tỉnh dậy, liền đem nói hết với kẻ tả hữu. Quan ngự sử đại phu là Lương Văn Nhậm nói:
-Đó là lời thần có ý muốn hiển linh để mà lập hình tượng.
Nhà vua truyền lệnh xin keo, thì lập tức thấy ứng nghiệm, bèn sai người trong châu lập đền thờ và tạc một thần tượng y như vua đã trông thấy trong mộng. Miếu mạo sum nghiêm, làm phúc thần cho cả một phương.
Trong niên hiệu Nguyên Phong (1251-1253, đời vua Trần Thái Tông), rợ Thát Đát vào cướp mà ngựa chúng què không thể tiến được. Thôn dân vốn biết có sức thần giúp liền dẫn chúng nhân ra cự chiến, chém đầu quân giặc rất nhiều. Đám nghịch tặc chạy tứ tán, không dám trở lại nhòm ngó cõi bờ ta nữa. Khi đã bình xong giặc cướp, liền có sắc phong Chứng An quốc công và có chiếu ban cho cả thôn ấy đổi làm Chứng An hộ xá.
Niên hiệu Trùng Hưng (1285-1293, đời vua Trần Nhân Tông) năm đầu, giặc Bắc lại vào cướp phá nữa, đến đâu cũng đều đốt rụi cả, qua tới ấp này thì như có người phòng hộ, một mảy thu hào cũng không bị động tới.
Lúc dẹp xong giặc cướp, lại có sắc phong Chứng An vương. Sang năm thứ tư còn gia phong hai chữ Minh ứng. Niên hiệu Hưng Long thứ 21 (1293-1294, đời vua Trần Anh Tông, đây chỉ năm 1313) lại có thêm hai chữ Tá Quốc càng sáng tỏ sự linh ứng nữa vậy.” (4) Việt điện u linh bản A. 751 do Trịnh Đình Rư-Đinh Gia Khánh dịch còn có Phụ chép sự tích thần xã An Sở: “Gia Thông đại vương người làng Cổ Sở (sau đổi là An Sở). Bấy giờ thiên hạ gặp buổi mờ tối, người hào kiệt phải giấu họ tên. Đại vương còn trẻ tuổi, phong tư và tài nghệ khác thường, cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, có uy đức lại có sức trị được voi. Vương giúp vua Lý Nam đế (đồng thời với vua Vũ Đế nhà Lương), vua thấy tài mạo, biết là bậc đại trượng phu, có thể đảm đương một mặt trận, bèn cho theo việc binh, lập được nhiều công to. Sau thấy đất Đỗ Động ở biên giới, một nơi xa và hiểm yếu, phi đại vương không ai cai trị nổi, vua mới cho vương làm đại tướng ra trấn thủ ở nơi đó. Một hiệu lệnh của vương ra, những kẻ hùng trưởng đều phải nín hơi, trộm cướp về hàng phục, dân trong hạt rất được yên vui, già trẻ đều cảm ơn đức.” Về sự tiêu vong của nhà Tiền Lý liên quan đến cái chết của Lý Phục Man tác giả viết tiếp: “Không may cho nhà Lý, năm Thiên Đức thứ 2, Ất Sửu (545), nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem binh sang xâm lấn, thắng ta luôn mấy trận, đất Chu Diên, Tô Lịch đều về tay địch chiếm. Năm thứ 4, Đinh Mão (547), quân Lương thừa thắng tiến đánh rất mạnh. Nam đế phải lui vào giữ động Khuất Lạo được ít lâu rồi mất. Thái úy nghe tin buồn rầu than thở, sai quân giữ các nơi hiểm yếu. Một đêm bỗng thấy bốn mặt lửa sáng rực trời, man binh lũ lượt kéo đến trước sân vây bọc. Thái úy biết là bọn man binh phản công, mệnh trời khó biết, mới dẫn các gia tướng phá vòng vây chạy ra. Quân giặc đuổi theo rất gấp, đường cùng sức kiệt, Thái úy liền chỉ trời vạch đất ung dung chết vì nghĩa lớn. Người nhà rước linh cữu về bến Hồ Mã (nay là bến Ngọc Tân, tên một con sông ở bản xã) rồi táng ở bên sông ngoài làng.”(5) Như thế Lý Tế Xuyên đã cho biết thông tin về Lý Phục Man từ khi ông làm nên sự nghiệp cho đến lúc hóa thần và sự ứng nghiệm linh thiêng của thần với sự nghiệp trung quân ái quốc, cụ thể là hai triều đại Lý-Trần.
Sách cổ ghi chép kiệm lời vì quan niệm xưa quốc sử chú trọng trên hết là chép về các triều đại theo lối biên niên, vua chúa thay nhau “cha truyền con nối, trị vì thiên hạ”, việc quan dân chỉ là phụ họa cho sự nghiệp của các “hoàng đế”. Phương pháp luận đó khiến sử gia Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê đã căn cứ theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên, tham bác nhiều tài liệu khác như Việt điện u linh... chẳng hạn, để biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Phần Ngoại kỷ ghi chép lịch sử dân tộc Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương đến năm 967 chủ yếu là sưu tập các truyền thuyết xung quanh những thông tin không nhiều từ các nguồn thư tịch. Sự thận trọng đó đã đẩy lùi cột mốc lịch sử ra đời một hình thức nhà nước quân chủ phong kiến, độc lập tự chủ của dân tộc Việt đến thế kỷ X-mà lẽ ra vua Lý Nam đế với sự ra đời của nước Vạn Xuân có thể coi là người mở đầu. Vấn đề lai lịch, quê quán của nhân vật Phạm Tu khi các tác gia sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi tên ông thì dãn cách thời gian cũng đã qua đi khoảng thời gian trên dưới 1.000 năm. Theo nguồn chính sử này, võ tướng Phạm Tu đã nổi tiếng ở tầm quốc gia ngay từ lúc sinh thời. Song, cũng từ đây về sau ánh sáng từ tấm gương hy sinh vì nước, cuộc đời làm tướng anh dũng vẻ vang của ông luôn truyền cảm, dẫn độ các tác gia đời sau không thể bỏ qua tính danh Phạm Tu hoặc Lý Phục Man, khi có dịp biên soạn lại sử Việt, cho dù lượng thông tin ít ỏi đến mấy.
Ở đây cần xét xem trong khoảng bảy năm (541-548) đời vua Lý Nam đế có mấy lần đánh đuổi giặc Lâm Ấp? Thực tế chỉ có một lần duy nhất là năm 543. Đại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ (quyển IV) chép: “Quý Hợi năm thứ ba (543), mùa hạ, tháng Tư vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức.
Giáp Tí, Thiên Đức thứ 1 (544), mùa xuân, tháng Giêng, vua nhân đánh được giặc, tự xưng là Nam Việt đế, lên ngôi, đổi niên hiệu, đặt trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân là ý mong xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn và tướng võ.”(4) Một trong ba người giữ vai trò chủ chốt giúp vua Lý Nam đế ở ba lĩnh vực khi mới dựng nghiệp thì chỉ có một vị quan võ là Phạm Tu, chứng tỏ Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là tên gọi khác nhau của một người. Cho đến nay, thực tế thống kê hàng chục tài liệu khác nhau đều cho kết quả đó. Vì chiến công dẹp quân Lâm Ấp giữ gìn cương thổ nên tướng Phạm Tu mới nổi danh hơn khi còn làm quan ở một vùng châu thổ. Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ. (i) Quan hệ xã hội của Lý Phục Man ở chốn vương triều ngày một rộng, to nhỏ thì cũng vừa là thân vương vừa là tướng lĩnh đầu triều, bởi vậy thế lực của Lý Phục Man chỉ cần “ăn theo” cơ chế của giai cấp thống trị đương thời cũng đủ dư thừa thực ấp, cũng như mọi uy quyền không chỉ trong phạm vi trấn xứ mà đã ở tầm quốc gia. Với cương vị đại tướng mà bên cạnh vua Lý Nam đế chỉ có Tinh Thiều làm tướng văn và Lý Phục Man làm tướng võ, được chính sử ghi lại hẳn không phải là bất cẩn. Ngoại kỷ chép về danh tướng Phạm Tu với tư cách một vị tướng giỏi của vua Lý Nam đế bằng tên “khai sinh” cho đến khi ông đánh thắng giặc Lâm Ấp, với những tư liệu do Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên để lại, đó là tôn trọng một sự thật lịch sử. Danh xưng Phạm Tu như các sử gia chép ở phần Ngoại kỷ với sự kiện đánh thắng giặc Lâm Ấp, sự kiện lớn gắn liền với sự nghiệp đánh giặc cứu nước của ông. Không những thế, thắng lợi ở biên cương phía nam đương thời đã tạo thế đứng cho vua Lý Nam đế thế kỷ VI. Song, khi sách viết đến phần Bản kỷ, ở quyển II, Kỷ nhà Lý, thì nhân vật Phạm Tu đã trở thành vị thần thiêng Lý Phục Man. Mặt khác, theo quan niệm của người Việt, dù thần thánh ở bậc nào, thiêng liêng, phù phép cao thủ đến đâu, vẫn phải “phò vua giúp nước” thì mới tồn tại. Vì vậy, vào “Bính Thìn năm thứ bảy, mùa xuân, tháng ba (1016) động đất. Vua nhân đi xem ngắm núi sông, đến bến đò Cổ Sở, thấy khí tốt của núi sông tâm thần cảm động…”. Sau đoạn văn trên là trọn vẹn câu chuyện kể cả tình tiết và văn phong, thể hiện là Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại trọn vẹn sách Việt điện u linh như đã dẫn đoạn trên. Lúc này danh tướng Phạm Tu dường như chỉ còn dấu ấn trong trang sử thời Tiền Lý, còn giờ đây tên ông được gọi là thần thiêng Lý Phục Man hay thánh Giá bởi người đã “thác về trời” từ gần 1000 năm trước. (c)
Nhiều văn bia, thần tích xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII trở đi đều căn cứ văn bản Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư mà đổi thay chút ít, để biên soạn thần tích cho phù hợp nơi thờ, chỗ dựng bia thánh Giá thờ phụng Lý Phục Man; song hành trạng công tích mà nhân vật lịch sử từ khi còn mang tính danh Phạm Tu đến lúc được vua ban tên hiệu Phục Man và họ Lý của vua, gắn liền với các sự kiện đều thống nhất ở một con người, một triều đại Tiền Lý, được đời đời tôn vinh.
Xuất phát từ tinh thần tự cường dân tộc, bất cứ triều đại nào, thế lực nào thống trị, thì những trang sử hào hùng của quan dân Đại Việt đều được các bậc trí thức... nhiều khi làm quân sư hoặc theo lệnh vua chúa mà tăng bổ, biên soạn lại. Hình thức chuyển tải nội dung lịch sử thành diễn ca bằng sự kết hợp giữa hai thể loại thơ song thất, lục bát nhằm mục đích phổ biến sâu rộng kiến thức lịch sử đến tầng lớp bình dân, đã có nhiều thành tựu. Vào những năm bảy mươi của thế kỷ XVII, tác phẩm Thiên Nam minh giám đã ra đời, có đoạn viết:
Tiền Nam đế dâng công mở nước
Tôi thuẫn thành dùng được Phục, Tu
Vâng lời rửa hổ, trả thù
Ải Nam đã quạnh ngựa Hồ thả dong.
Soạn giả Hoàng Thị Ngọ khi phiên âm bản diễn ca đã bám vào thứ tự câu thơ, chú giải:
“129-Tiền Lý Nam đế: tức Lý Bôn, còn gọi là Lý Bí. Năm 541, Lý Bí nổi dậy đánh đuổi thái thú Tiêu Tư, xưng là Lý Nam đế.
130-Tôi thuẫn thành: người bề tôi trụ cột giữ gìn, giúp rập cơ nghiệp của nhà vua.
131-Phục, Tu:-tức Triệu Quang Phục và Phạm Tu (... ) Phạm Tu (?-545) quê ở Yên Sở, huyện Hoài Đức (nay thuộc Hà Tây). ông là võ tướng của Lý Nam đế, có công lớn trong việc đánh dẹp giặc và xây dựng nên nhà Tiền Lý.” (6)
Về tên gọi Lý Phục Man của danh tướng Phạm Tu người xưa khi cần đề cập đến có cân nhắc rất thận trọng. Chẳng hạn Thuật thần từ cựu bi dựng năm 1728 ở làng Giá (nay thuộc xã Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội) đã viết: “Đại vương là người làng này, từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, tài nghệ khác thường, giỏi cưỡi ngựa bắn cung và dạy voi. Thời vua Lý Nam đế, vua thấy thần là người kiệt xuất, đúng là một đấng đại trượng phu, có khả năng đảm đương những công việc lớn, liền cho thần theo việc quân. Thần đã lập nhiều chiến công hiển hách. Sau thần được phong làm đại tướng quân, trấn giữ vùng Đỗ Động Đường Lâm. Ở đây mỗi khi thần xướng lệnh thì bọn giặc cướp đều tháo chạy hoặc quy hàng tất cả. Nhân dân được yên vui, già trẻ đều đội ơn và ca ngợi công đức của thần.
Khi người Lâm Ấp đánh chiếm vùng đất Cửu Đức thì rất nhiều tin cấp báo về triều đình. Triều đình hội kiến, ai cũng tâu vua rằng: “-Ngoài Đỗ Động tướng quân, không ai có thể thắng được bọn giặc này!” (e) Vua liền xuống chiếu cho thần thống lĩnh các chư tướng đem quân đi, khi đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức. Biết tin, vua không ngớt lời khen ngợi và nói với các quần thần: “-Gặp thớ gỗ cứng mới biết được dao sắc, nay Đỗ Động tướng quân chỉ mới bắn vài phát tên mà đã phá tan quân giặc dữ, thật là một vị tướng anh hùng hào kiệt đất Sơn Tây vậy. Các bậc danh tướng thời xưa cũng không thể hơn được, không thể không ban thưởng.
Vì tướng quân đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man, cho thần được đổi họ theo họ Lý của vua; vua lại gả công chúa cho thần, phong thiếu úy cho thần, cho thần tham nghị triều chính đứng đầu các quan”. (7) Văn bia chữ Hán xưa rất tôn trọng quan niệm kiêng gọi tên húy, lại thường gọi đương sự với chức cao nhất tùy thuộc vào thời điểm mà người đó đảm nhiệm hoặc chỉ ghi Phạm công (với nghĩa là ông họ Phạm), nên lúc Phạm Tu làm quan trấn ải thì mang tên Đỗ Động tướng quân đồng nhất tên ông với vùng đất ông đang cai quản, khi được vua cho đổi họ Lý và phong tước Phục Man thì ông có tên Lý Phục Man. Cần lưu ý rằng, phần chính nói về tích thần của cả năm bài văn bia hiện diện ở đền thờ Lý Phục Man tại làng Giá, đều có sự kế thừa từ năm 1603 đến 1855, theo như Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư đã chép lại.
Bên cạnh những tài liệu khá rành mạch trên đây, tác giả sách diễn ca lịch sử ra đời cuối thế kỷ XVII như Thiên Nam ngữ lục có viết như sau:
Địch thời Phục Man, Phạm Tu
Trận phá nhắm mắt, thành đồ phản tay
(... )
Binh xâm Quảng Hóa, Nghệ An
Đua hơi cầm đói duổi đàn lợn con
Mạnh chi thằng rợ học khôn
Phạm Tu binh đến đuổi dồn phá tan.
Vua sai thái úy Phục Man
Người quê Đan Phượng có gan anh hùng
Bình sinh chí khí tang bồng
Quê ở Cổ Phái con dòng sinh ra
So đời một chẳng hai ba
Tương Như chẳng khuất, Liêm Pha chẳng thìn
Đến đoạn sau, khi tướng quân Phạm Tu đã dẹp xong ngoại xâm phía nam; giặc Lương lại đến từ phía bắc, tác giả viết tiếp:
Đêm khuya trời đất tối tăm
Ba vòng quân bọc một tầm nước sâu.
Lý Nam, Phạm tướng bảo nhau
Cơn này đã chẳng làm sao khỏi mình.
Câu chuyện được dẫn dắt qua mười bốn câu thơ nữa, thuật lại là Lý Nam đế bị giặc bao vây ở động Khuất Liêu:
Lý Nam thấy sự đã nghèo
Liệu chẳng khỏi nào thấy mình trong hang.
Theo văn cảnh lúc đó, các tác giả cho rằng:
Phục Man trấn giữ cõi xa
Nghe tin Nam đế phải thua triệt hồ.
Vua cùng tướng quân Phạm Tu
Và Khuất Liêu động thác hư lên trời.
Một mình âm ỉ khúc nhôi
Vua thăng, giặc dấy, cậy ai đấy là !
Chiêm Thành tuy nó ở xa
Sự trong nước loạn nó hòa đã hay.
Bằng con nó động đến đây
Nó xưa nồi náu, nó rày ngoài xông
Cái ngùi, cái ắt khôn mong
Phục Man có chí anh hùng làm chi.
Các trích đoạn Thiên Nam ngữ lục thể hiện tác giả cho rằng Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người khác nhau. Liên quan đến việc chú giải khi phiên âm văn bản, hai soạn giả Nguyễn Lương Ngọc-Đinh Gia Khánh cho biết địa danh Cổ Phái nay là làng An Sở, huyện Đan Phượng là quê hương của Lý Phục Man, còn Phạm Tu quê đâu không thấy tác giả khuyết danh trong nguyên bản nói đến. Vấn đề cần lưu ý là sự kiện thành lập nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam đế và nhân vật Phạm Tu, Lý Phục Man được tác giả Thiên Nam ngữ lục (8) miêu tả thành hai người khác nhau. Song chính từ nội dung kỷ Tiền Lý Nam đế (từ câu 2. 243 đến câu 2. 435) đã chứa đựng mâu thuẫn giữa các diễn biến thời cuộc và nhân vật lịch sử. Đoạn trên chúng tôi đã dẫn Đại Việt sử ký toàn thư nói rõ triều đại Lý Nam đế chỉ có một lần, một tướng Phạm Tu cầm quân đi đánh giặc Lâm Ấp vào “mùa hạ, tháng Tư” năm 543-lúc đó Phạm Tu chưa có danh hiệu Phục Man (thắng giặc man, man di trong chữ Hán là từ chỉ các tộc người thiểu số nói chung, ở đây là giặc Lâm Ấp) và chưa được vua ban cho họ Lý. Mở đầu việc vua Lý Nam đế sai quân đi dẹp giặc phía nam, sử ca Thiên Nam ngữ lục đã viết: “Địch thời Phục Man, Phạm Tu” cùng đi là không đúng với thực tế so với nguồn tư liệu chính sử đáng tin cậy nhất, làm cho người đọc hiểu rằng đó là hai vị tướng. Trong thực tế, phải sau khi chiến thắng giặc Lâm Ấp, Phạm Tu mới có tính danh Lý Phục Man do vua Lý Nam đế ban tặng cho. Nghĩa là từ sau “mùa hạ tháng Tư”-sau chiến thắng quân Lâm Ấp-khoảng từ năm 544 trở đi tính danh Lý Phục Man mới nổi tiếng đến mức xóa nhòa tên cũ là Phạm Tu. Vì thế lối chép biên niên sử mới xếp Phạm Tu vào phần Ngoại kỷ, tương ứng theo niên đại thế kỷ VI. Ở phần Bản kỷ các sử gia nhắc đến tên thần Lý Phục Man trong hai lần hiện hồn báo mộng cho vua Lý Thái Tổ và Trần Nhân Tông là sự kiện của thế kỷ XI và XIV như Đại Việt sử ký toàn thư đã chép. Đi xa hơn, Thiên Nam ngữ lục còn dựng lên chi tiết khi vua Lý Nam đế và Phạm Tu bị giặc Lương bao vây và giết chết ở hồ Điển Triệt cũng là lúc Lý Phục Man vẫn còn ở biên viễn phía nam, bởi câu “Phục Man trấn giữ cõi xa”, tạo cái cớ cho vị quan chức nào đó đã xem bói chân gà “... cái ngùi cái ắt...”(9) mà hạ thấp vai trò của tướng quân Lý Phục Man, rằng: “Phục Man có chí anh hùng làm chi”. Sử dụng tư liệu lịch sử để sáng tác văn học như thế là tùy tiện qua loa, khiến người đọc ít có điều kiện tham bác dễ hiểu sai lạc. Sáng tác văn học như diễn ca lịch sử xưa nay cũng như tiểu thuyết lịch sử đương đại cho phép tác giả được hư cấu hình tượng, sao cho điển hình nhân vật nổi bật, nhưng không được bịa ra sự kiện, không được “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”, gây nhận thức rối loạn cho người đọc.
Thế kỷ XIX còn để lại bộ sách Đại Nam nhất thống chí, quyển XXI, tỉnh Sơn Tây, các sử gia thời Nguyễn đã trở về với lối chép nghiêm cẩn: “Đền thần Yên Sở ở xã Yên Sở, huyện Đan Phượng. Thần người xã này, lúc còn trẻ võ nghệ hơn người, thờ Lý Nam đế, nhiều lần lập công lớn, nổi tiếng trung liệt, được làm đại tướng quân, lãnh hai miền Đỗ Động Đường Lâm, người Di, Lão phải xa lánh, dân địa phương được yên.”(10)
Năm 1938, Nguyễn Văn Huyên viết công trình Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam Lý Phục Man(11), khi dẫn Đại Nam nhất thống chí có so sánh rồi tiểu kết: “cái thật sự mới trong Thống chí so với Việt điện u linh tập chính là phần nói về cuộc đời của Lý Phục Man. Tên thần chỉ là một cái tên vay mượn. Cả tên lẫn họ của ông đều không phải là những tên gọi lúc ra đời. Chính vì ông đã dẹp được quân man Lâm ấp mà ông được đặt tên là Phục Man. Và nhà vua đã cho phép ông đổi tên họ thành họ Lý là quốc tính. Điều đó thường hay diễn ra trong lịch sử Việt Nam. Nhất là khi một vương triều mới lên ngôi, các bề tôi trung dũng đều được gia ân mang họ hoàng tộc. Và sau đấy con người chỉ còn được gọi bằng biệt danh. Đấy là trường hợp Lý Phục Man mà tên gốc đã hoàn toàn biến mất.” Tiếc rằng vì mê mải với những kiến giải dân tộc lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, Nguyễn Văn Huyên chưa dừng lại tìm đến tận nguồn tên gọi Phạm Tu. Hiện có đến hàng chục bản thần tích viết về Lý Phục Man, nhưng cũng chỉ có vài bản có chi tiết cho biết Phạm Tu là tục danh của Lý Phục Man, còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần. (k) Ngay cả tên thần Lý Phục Man hầu như văn bia, văn cúng và ngôn từ giao tiếp người ta cũng kiêng gọi đích danh.
Băn khoăn trước những nguồn sử sách như vậy,với bút danh Chí Kiên, năm 1969 trên báo Hà Nội mới ngày 28 tháng 7 có đăng bài Phạm Tu của Vũ Tuân Sán, tác giả tóm tắt diễn biến cuộc kháng chiến chống giặc Lương của quân dân Nam Việt, sự ra đời của nước Vạn Xuân và nêu gương một số tướng lĩnh; đặc biệt là danh tướng Phạm Tu và đặt câu nghi vấn: “Hà Nội có thể tự hào là quê hương của tướng Phạm Tu, vốn người Thanh Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Theo thần phả còn giữ được ở địa phương, Phạm Tu sinh năm Bính Thìn (476) vào ngày10 tháng 3 âm lịch.” Lập tức, tư liệu do Vũ Tuân Sán công bố được Trần Quốc Vượng tin dùng khi tham gia biên soạn Lịch sử Việt Nam (tập 1, Nxb KHXH,1971): “Theo sử cũ và truyền thuyết dân gian, thủ lĩnh vùng Chu Diên là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí, đem dân binh theo Lý Bí trước tiên; tiếp theo đó là Tinh Thiều, Phạm Tu (người Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội, Lý Phục Man (hiện còn đền thờ ở Cổ Sở, Hoài Đức, Hà Tây) và nhiều hào kiệt các nơi khác cũng cùng Lý Bí kết làm đồng chí.-trang 114”. Đồng soạn giả Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHVTHCN, H,1983) ông viết dè dặt hơn: “Phạm Tu (có đền thờ ở Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.” Trước đó gần hai mươi năm, năm 1960 trong giáo trình Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập I) tác giả đã tham khảo Tư trị thông giám và Đại Việt sử ký toàn thư khi nhắc đến Phạm Tu, nhưng chưa có điều kiện chỉ rõ quê quán. Bốn năm sau, sách Danh nhân Hà Nội (tập I-1973) in lại bài báo của Vũ Tuân Sán với sự bổ sung một đôi câu đối vào cuối bài. Năm 1975, sách Hà Nội nghìn xưa của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Vũ Tuân Sán (tái bản năm 1998) có bài Lão tướng Phạm Tu giữ lại tinh hoa của bài báo. Có thể coi như bài viết được tái bản lần thứ tám trong kỷ yếu hội thảo Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử (1999). Ở đây bài viết có bổ sung thêm hai câu đối nữa. Tác giả viết: “Danh tướng Phạm Tu được khâm phong là Đô Hồ đại vương, được thờ làm thành hoàng thứ nhất ở đình Ngoài.” Gần đây, bài báo năm 1969 của Vũ Tuân Sán được in lại lần thứ năm theo nguyên bản trong sách Danh nhân Hà Nội (2004). Toàn tập những bài viết của Vũ Tuân Sán Hà Nội xưa và nay (2007) tái bản lần thứ sáu bài Phạm Tu.
Nếu quả đúng như vậy, coi như không chỉ quê hương danh tướng Phạm Tu đã được khẳng định mà gián tiếp các tác giả đã nêu rõ là Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người. Vấn đề khoa học thật lý thú và đầy trở ngại vẫn được một số người quan tâm. Hướng tới khẳng định ý kiến về Phạm Tu và quê hương danh tướng, Lê Văn Lan viết: “nhận chân về Phạm Tu trở lên vừa khó khăn-mơ hồ, vừa mâu thuẫn-phức tạp. Chẳng hạn như những dòng viết về ông sau đây, trong bộ Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, H, 1991, tr. 744): Quê làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội (nay là Hà Tây). ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man, lại được vua gả công chúa Phương Dung cho... Mộ và đền thờ ông, nay hãy còn di tích tại quê ông ở làng Giá”.
Như vậy, ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần
là Lý Phục Man, được sách cổ Việt điện u linh chép từ đầu thế kỷ XIV-và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết. Do đó, nảy sinh một vấn đề trước tiên là: Quê hương bản quán của Phạm Tu ở đâu? Bởi vì, trong khi Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam cho rằng Phạm Tu là người quê ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây) thì, chẳng hạn như Từ điển văn hóa Việt Nam hoặc vừa đây, sách Thành hoàng Việt Nam (Nxb Văn hóa Thông tin, H, 1997, tập II, tr. 565) đều khẳng định rằng: ông là người “quê làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội” hoặc “quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.” (12) Tác giả bài tham luận tiểu kết phần I: “những điều quan trọng, quý báu, cụ thể và sinh động như thế, trong cuộc đời và sự nghiệp của lão tướng Phạm Tu, đã được nguồn phát sóng văn hóa học dân gian ở Thanh Liệt cung cấp và Thanh Liệt xứng đáng với niềm tự hào về một quê hương văn võ song toàn: võ là Phạm Tu (476-545) quê hương là thôn Vực; văn là Chu Văn An (?-1370), quê mẹ sinh hạ ra ông tại thôn Văn, cùng xã Thanh Liệt.” (13).
Thực tiễn thời thuộc Lương của cõi Nam Việt đã để lại nhiều bài học lịch sử, trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước thì danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man nổi tiếng hơn cả. Những năm bốn mươi của thế kỷ XX, Nguyễn Văn Huyên đã đặt vấn đề tên thần, quê hương Lý Phục Man và nêu chính kiến. Đến nửa sau thế kỷ XX, Hà Văn Tấn là đồng tác giả trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam và hai cuốn Lịch sử Việt Nam vẫn giữ ý kiến riêng của mình khi viết phần khảo cứu, giới thiệu đình Yên Sở trong sách Đình Việt Nam (1998), ông đã viết: “Trong đình còn giữ nhiều đồ tế tự. Gian chính trong đình có bức hoành đề “Vạn cổ thiên thành”, có hai lọng, đồ bát bửu và hai con hạc đứng trên lưng rùa.
Đình thờ Phạm Tu hay Lý Phục Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam đế (541-548). Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch.” (14)
Căn cứ vào thần phả và truyền thuyết dân gian ở xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Quy ước làng Ngọc Than do sở Văn hóa thông tin Hà Tây xuất bản năm 1995 có đoạn: “Thế kỷ VI, Phạm Chí (tức Phạm Tu) đã tập hợp 300 tráng binh của làng, tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, góp phần đánh đuổi giặc Lương, lập nên nhà nước độc lập Vạn Xuân.” Theo tài liệu sưu tầm, dịch thuật của Nguyễn Bá Hân, hiện ở xã Yên Sở còn ngôi chùa Lựa, chùa không thờ Phật mà là nơi thờ cha mẹ Phạm Tu. Và “Đây đúng chỉ là một ngôi miếu con mà tổ tiên chúng ta dựng trên mảnh đất nền nhà cũ của ông bà cụ Phạm Tôn ở xóm Lã Xá, nơi mà người con của quê hương, vị anh hùng dân tộc Phạm Tu đã sinh ra và lớn lên ở đó.”
Sau bài viết của Vũ Tuân Sán, hầu hết các tác giả tham gia hội thảo về danh tướng Phạm Tu ngày 8 tháng 9 năm 1998 đều nêu ý kiến đồng tình: Phạm Tu là một danh tướng thời Lý Nam đế, là một người khác tồn tại độc lập với danh thần Lý Phục Man “sinh ngày 12 tháng 3 năm Bính Thìn (476) tại trang Quang Liệt, tên cổ của Thanh Liệt”. Về năm mất “Theo thần phả, tả tướng Phạm Tu đã giúp Lý Nam đế cầm cự được gần hai năm, sau bị thất bại ở vùng Chu Diên, tức khu vực Hải Dương, Hưng Yên ngày nay, quân ta lui về giữ thành ở ngay cửa sông Tô Lịch (khu vực chợ Gạo, sau chợ Đồng Xuân hiện nay). Quân Lương xiết chặt vòng vây, quân ta đã chiến đấu ngoan cường. Chính trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt này, lão tướng đã ngoài 70 tuổi Phạm Tu đã anh dũng hy sinh... Đó là ngày 20 tháng Bảy năm Ất Sửu (545)” (14). Ngoài kỷ yếu Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử (1999), Phạm Hồng Vũ đã biên soạn và xuất bản Danh tướng Phạm Tu (2003) tiếp tục khẳng định những kết quả trên. Theo luận suy của Trần Quốc Vượng thì có thể thành Vạn Xuân của Lý Nam đế được dựng bên bờ hồ Thanh Đàm. Phạm Hồng Vũ đã tìm thấy “Dấu ấn thời gian còn in đậm trong mỗi cái tên của làng quê, liên quan đến những chiến tích của danh tướng Phạm Tu như cửa Triệu, cổng Đồn, cửa Trại; voi, ngựa, lá cờ, thanh kiếm, võng lọng và long, ly, quy, phượng được thể hiện bằng các gò đất và các thửa ruộng còn lưu truyền lại.”(15). Việc dân làng tôn vinh, thờ phụng Phạm Tu là thành hoàng làng là lẽ đương nhiên như 74 làng khác ở nhiều nơi trong nước. Loại bỏ dấu ấn của thuyết phong thủy (các gò đất mang danh long, ly, quy, phượng) thì chứng tích một thành Vạn Xuân hay cung điện sơ khai mà lại tồn tại chưa được 5 năm ở đây là đúng, bởi thế việc thờ vọng Phạm Tu ở Thanh Liệt là chính đáng. Đó là lẽ thứ hai khiến người đời không thể sao nhãng. Lẽ thứ ba, thần phả Phạm Đô Hồ đại vương Thanh Liệt xã (神譜笵都湖大王清列社) “sao lục tại đền Hùng Vương tỉnh Phú Thọ” năm 1934 không có tên người soạn thảo và ngày tháng ấn định văn bản nên độ tin cậy không cao. (g) Cuốn thông sử mới nhất Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, do Đỗ Văn Ninh chủ biên (2001) thận trọng chú thích: “Lý Phục Man là một nhân vật chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc. Có người cho rằng Lý Phục Man với Phạm Tu là một. Vấn đề này cần được chứng minh.”
Theo chúng tôi, danh tướng Phạm Tu hay danh tướng, sau khi chết là danh thần Lý Phục Man chỉ là một người. Mỹ tự “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, thụy Đô Hồ đại vương, thượng đẳng thần” (感應居士范修謚都湖大王尚等神) trong bản thần tích Phạm Tu ở Thanh Liệt có thể có sự nhầm lẫn. Bằng chứng chắc chắn là sinh thời Lý Nam đế chưa thể có sắc phong thần cho Phạm Tu, bởi lẽ nếu tướng Phạm Tu chết cùng Lý Nam đế ở động Khuất Liêu hay hy sinh ở cửa sông Tô Lịch thì ông còn chết sau vua; (a) thế thì mỹ tự Cảm ứng của Đô Hồ đại vương không bao giờ có là “Nam đế sắc vi” (南帝敕為) được. (h) Hai chữ Cảm ứng là do vua....... tặng thần Lý Phục Man trong sắc phong: “Năm Khánh Đức thứ 4 (1652), ngày 19 tháng 2... thần được vua ban thêm 18 chữ: Phổ Huệ, Phát Chính, Thi Nhân, Hùng Hồn, Côi Vĩ, Thuần Túy, Linh Uy, Cảm ứng, Phu Dũng”(16). Giả sử nếu có sắc phong cho Phạm Tu thì bắt buộc phải là loại văn bản hành chính do vua ban hành để khen thưởng, tuyên dương công trạng hoặc thăng chức cho người có thành tích hiện còn sống. Vả lại, việc đặt tên thụy xưa nay là do người sống đặt tên cho người mới chết, thường theo hành vi lúc sinh thời mà đặt. Sự nhầm lẫn này là bình thường trong các văn bản Hán Nôm bị sao đi chép lại, nhưng khi nghiên cứu cần thiết phải giám định tư liệu khi sử dụng.
Mười bản sắc phong đời Nguyễn-theo Phạm Hồng Vũ là sắc phong cho thành hoàng Phạm Tu-từ năm 1824 đến năm 1934 là những tài liệu xác thực. Ngoài ra ông còn viết: “Theo truyền thuyết dân vùng quê Thanh Liệt đã tự phong danh tướng Phạm Tu là nguyên súy và thêu lá cờ mang hai chữ nguyên súy bằng kim tuyến trên nền xanh xẫm xung quanh có tua vàng. Trong mỗi dịp lễ hội, cờ được cầm đi trước kiệu.” Và “danh tướng Phạm Tu là thần Tây Vực (thần võ phía tây) giáng trần dạy dân cày cấy, dẹp giặc Lương phương bắc, bình giặc Chiêm phương nam, xây dựng đất nước thái bình.” Vua Minh Mệnh “ân điển tặng thêm cho thần tước vị” là hai chữ Công Chính. Khi vua Thiệu Trị tại vị “nhân ngày đại khánh mừng thọ Minh Mệnh 50 tuổi” tặng thần thêm hai chữ Luyện Đạt, ghép nối thành Công Chính Luyện Đạt vào ngày 12 tháng 5. Hơn một tháng sau, ngày 18 tháng 6 năm 1884 có một sắc nữa lặp lại y nguyên. Bảy sắc phong còn lại của các vua Tự Đức (hai lần 1850 và 1879), Thành Thái (hai lần 1901 và 1903), Duy Tân (hai lần 1909 và 1913), Khải Định 1924 chỉ ghi nhận: “trẫm ghi nhớ công ơn rực sáng của thần” và “chuẩn y cho dân làng thờ phụng như cũ”. Điều đáng chú ý là danh tướng Phạm Tu được tôn thờ ở Thanh Liệt đã được coi là “thủy thần có công đức giúp nước che dân lâu nay linh ứng rõ ràng.” Ở làng Ngọc Than cũng có một điểm thờ Phạm Tu, thần phả cũng nhận là người làng và lại có sắc phong cho thần là Đông Hải đại vương. Rõ ràng là nhân dân đã truyền thuyết hóa lịch sử, tìm mọi cách đề cao vị thành hoàng làng mình, gán cho thần những điều linh dị, sao cho hợp với phong thổ, địa danh mà họ đã và đang cư trú. Đời sau, nhiều thế hệ sau vua theo các quan trình nghị ý kiến của dân mà phê duyệt. Sự sai lạc tình tiết, ghép nhặt các mảnh truyện ly kỳ không mấy ai quan tâm, chỉ có các nhà nghiên cứu, chép sử băn khoan khi có dịp cần xem xét. (d)
Tuy nhiên, dù có mấy nhược điểm trên, truyền thuyết hoặc truyền thuyết được chép lại trong gia phả, thần tích vẫn bộc lộ bóng dáng sự thật lịch sử khá rõ. Phạm Tu với tên thần là Đô Hồ đại vương ở Thanh Liệt “là thang mộc ấp”-đất vua ban. Ở đây “ơn tắm gội” có thể là của vua triều Nguyễn. Đình thờ Phạm Tu ở Thanh Liệt chỉ là một điểm thờ vọng được vua khẳng định lại chí ít là mười lần. Giả thiết việc sùng kính Phạm Tu và việc làng Thanh Liệt được cấp đất thờ cúng Phạm Tu xảy ra ngay khi ông còn tại thế, một khi công trạng của ông với dân đã được khẳng định, thì cũng là chuyện đã có trong lịch sử. Mở đầu bản thần tích viết “Phạm Tu cư sĩ” là xuất phát từ nguồn lịch sử gia đình. Biết đâu có lúc nào đó trong cuộc đời Phạm Tu trước khi nổi tiếng bởi chiến công dẹp giặc, cũng đã từng ở chùa làng Thanh Liệt hoặc theo học một nhà sư nào ở đây. Truyền thuyết về Phạm Tu ở Yên Sở kể rằng: “giáp Quả Tây là hàng giáp người nhà thánh, được trông nom nhà cửa mồ mả cha mẹ thánh Giá. Ngôi nhà cũ ở xóm Ngõ Xá có tên gọi là chùa Lựa. Một ngôi chùa không thờ Phật mà chỉ thờ cha mẹ ngài. Nhân dân trong vùng cho rằng các cụ đều là người nhà Phật.”(17) Thế kỷ VI, đạo Phật đã thịnh hành ở Nam Việt, “thiền học Việt Nam chính thức có căn cứ từ hai thiền sư Thích Huệ Thắng và Thích Đạo Thiền.”(18)
Theo ngôn từ Phật học thì Phạm Tu là thế danh, còn khi người hiển thánh thì dân gian tìm mọi cách phù hợp kiêng gọi húy hiệu nên gọi Phạm Tu là thánh Giá, Thiên Nam thánh, thần Lý Phục Man. Hơn tất cả là tính danh do chính vua Lý Nam đế ban tặng, tính thiêng liêng lại gấp bội lần tăng. (b) Quê hương Phạm Tu-Lý Phục Man nay là xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội đương nhiên là nơi có đền thờ, lễ hội tưởng nhớ lớn nhất. Con số thống kê chưa đầy đủ đã có 74 làng xã ở khắp vùng châu thổ Bắc Bộ lập đền thờ, mở hội nhắc lại công ơn danh tướng đủ nói lên tầm quan trọng của một anh hùng dân tộc, một danh nhân Việt Nam nổi tiếng từ thời Tiền Lý.
__________
(1). Theo tài liệu sưu tầm của Nguyễn Bá Hân.
(2). Việt điện u linh-Bản dịch của Ngọc Hồ-Nxb Cửu Long,1992.
(3-4). Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, H, 1988.
(5). Việt điện u linh, Bản dịch của Trịnh Đình Rư-Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, H,
(6). Thiên Nam minh giám, Nxb
(7). Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H,1995.
(8-9). Thiên Nam ngữ lục, Nxb Văn hóa, H, 1959.
(10). Đại Nam nhất thống chí, Nxb Khoa học xã hội, H,1972.
(11). Nguyễn Văn Huyên toàn tập (tập 2), Nxb Giáo dục, H, 2001.
(12-13-14). Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, H,1999.
(15-16). Phạm Hồng Vũ, Danh tướng Phạm Tu
(17). Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H,1995.
(18). Trương Sỹ Hùng, Tôn giáo và văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, H, 2007.
PGS. TS. Trương Sỹ Hùng
Viện NC Đông Nam Á
Danh tướng Phạm Tu đã được lịch sử ca ngợi, đánh giá cao ngay từ khi ông còn tại thế. Một con người đã từng có nhiều cống hiến, hy sinh vì độc lập dân tộc, khi vào cõi vĩnh hằng thì càng ngày càng được tôn vinh ghi nhớ, nhưng có lẽ do tài liệu thất lạc, hỏa hoạn chiến tranh, thời gian bào mòn đến mức hư nát... khiến cho hành trạng cuộc đời, sự nghiệp của ông bị mai một. Tuy nhiên, với tất cả những tư liệu còn lại ngày nay giới nghiên cứu vẫn phục dựng được những nét cơ bản về ông, với những danh xưng Đỗ Động tướng quân, Lý Phục Man tướng quân và sau khi qua đời ông trở thành đức thánh Giá, một cách kiêng gọi tên húy, gắn danh thần với địa danh kẻ Giá, rộng hơn nữa là Thiên Nam thánh như vua Lý Thần Tông ban tặng. Khi vua Trần Nhân Tông phong sắc cho Phạm Tu là Chứng An đại vương (1285) thì dân chúng lại kêu cầu vắn tắt tên ông là đức Đại vương. Như thế mỗi tên gọi của ông đều có một ý nghĩa lịch sử không chỉ đối với cá nhân ông, dòng tộc ông. Theo thống kê của Nguyễn Bá Hân(1), từ thời Tiền Lý đến thời Nguyễn, các triều đại vua chúa Việt Nam đã ban tặng danh thần Lý Phục Man gần 300 mỹ tự (chữ đẹp) trong 60 lần phong sắc và hiện có 74 làng xã ở gần khắp các tỉnh phía bắc, từ Hà Tĩnh trở ra đã lập đền thờ ông. Danh tướng Lý Phục Man đối với non sông đất nước với dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử-kể từ khi ông xuất hiện rồi đi vào cõi vĩnh hằng-đều được các triều đại ghi nhận, tăng huy, tôn thờ ở vị trí thánh nhân. Đúng như bản văn khắc Cổ tích từ bi (古跡祠碑), dựng năm Vĩnh Tộ thứ hai (1620) đã viết:“嘗喟有功於國有功於民人追而嗣之厚之至也”( thường vị hữu công ư quốc hữu công ư dân nhân truy nhi tự chi hậu chi chí dã) nghĩa là: “Bình thường người ta vẫn nói, người có công với dân với nước thì được người đời tìm lại để tôn thờ, mãi mãi ghi nhớ cho đời sau.”
Khoảng thời gian từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX dù đất nước có biến động thăng trầm đến mấy, tính danh Lý Phục Man vẫn ngời sáng trong các trang quốc sử, nơi đền miếu tôn thờ và trong các nghi thức tín ngưỡng, lễ hội nhằm mục đích tôn vinh, ghi nhớ công ơn theo phong tục cổ truyền của người Việt. Vì thế, gần mười lăm thế kỷ đã trôi qua, việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Phạm Tu-Lý Phục Man vẫn đang còn cấp thiết, sao cho những trang vàng chói lọi lịch sử chống ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ do tổ tiên gây dựng được toàn vẹn, ngày mỗi ngày thêm vẻ vang, giầu đẹp.
Lý Tế Xuyên tác gia thời Lý-Trần trong sách Việt điện u linh, khi viết về Triệu Việt vương và Lý Nam đế đã chỉ rõ, thời thuộc nhà Lương nhân dân ta rất căm phẫn chế độ hà khắc của chính quyền đô hộ, “rồi nhân tên thứ sử Vũ Lâm hầu Tiêu Tư quá hà khắc tàn bạo, việc hành chính mất lòng người, dân chúng ngấm ngầm tính kế chống lại. Khi đó Lý Bôn (một cách phiên tên khác của Lý Bí, sau xưng là Lý Nam đế-TSH chú thêm) coi giữ quân ở châu Cửu Đức liên kết hào kiệt chín huyện, khí giới tinh nhuệ, cùng nhau khởi binh đánh cho thứ sử Tiêu Tư phải chạy về Quảng Châu. Lý Bôn đem quân đóng ở châu thành. Đúng lúc ấy, người Lâm ấp đến cướp đất Nhật Nam. Lý Bôn sai tướng Phạm Tu, đánh giặc ở Cửu Đức thu thắng lợi lớn, quân giặc tan hết, ông liền xưng là Việt vương, đặt trăm chức quan, đổi niên hiệu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.”(2) Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục miêu tả chi tiết “Lý Bôn tài kiêm văn võ làm quan triều Lương... vì bất đắc chí nên về Thái Bình khởi binh. Tù trưởng huyện Chu Diên là Triệu Túc cũng đem quân theo Lý Bôn. Tiêu Tư biết rõ việc ấy, đem tiền đút lót cho Lý Bôn rồi chạy về Quảng Châu. Lý Bôn liền giữ thành Long Biên.”(3) Cùng lúc đó, Phạm Tu cũng tập hợp lực lượng, huấn luyện một đạo quân, đánh đuổi giặc Lương ở vùng Đỗ Động Đường Lâm đã nổi tiếng từ lâu. Khi Lý Bôn lấy được thành Long Biên, xưng vương, tướng Phạm Tu hòa nhập lực lượng, dấy theo cờ nghĩa.
Trở lại với cách làm tuyển tập thần tích Đại Việt, Lý Tế Xuyên đã dẫn sách Sử ký của Đỗ Thiện viết về Phạm Tu, lúc này với tư cách là thần Lý Phục Man báo mộng cho vua Trần Nhân Tông. Chuyện kể, đời vua Lý Thái Tổ, nhân dịp đi quan sát địa phương, “nhà vua đến bến Cổ Sở, trông thấy phong cảnh núi sông rất đẹp, tâm thần nhà vua cảm xúc mới rót một ly rượu xuống dòng sông lớn mà vái rằng:
-Trẫm xem nơi đây thủy tú sơn kỳ khác hẳn mọi phương, nếu có linh hồn của những trang nhân kiệt, thì xin hãy nhận lễ ta dâng hiến.
Rồi ra đêm ấy, nhà vua mộng thấy một dị nhân cao lớn vạm vỡ, mặt hổ râu rồng, y phục trang nghiêm, khăn giày rành rạnh, đến cúi đầu lạy hai lần và tâu rằng:
-Thần vốn là người làng này, họ Lý tên Phục Man, đã giúp Lý Nam đế và làm tướng quân: nhờ lòng trung liệt mà đã nổi danh, nên được cho trấn thủ hai dải sơn hà Đỗ Động và Đường Lâm: đám mọi Lào đều sợ, không dám xúc phạm, hóa ra cả một phường đều yên ổn. Đến khi thần thác, đức thượng đế chấm lòng trung ấy, nên cho thần giữ chức như cũ. Cứ xin trình rõ vài điều mạo muội, hầu mong thánh thượng nghe qua. Xưa kia, thuở nhà Đường sắp làm vua, thần thường đem binh theo Khâu Hòa phá được nghịch tặc là Ninh Trường Chân ở cửa Giáp Sơn, qua đời vua Túc Tông lại phá được giặc Đại Thực Ba Tư ở cửa Thần Thạch, sang đời vua Đại Tông lại phá được giặc Côn Lôn Chà Và ở Chu Diên. Lại khi Cao vương phá nước Nam Chiếu, với lúc Ngô tiên chúa phá quân Nam Hán, Lê Đại Hành cả phá Tống binh, mỗi lần xuất quân chinh phạt, thần luôn luôn ở trên không mù mịt đã mang quỷ binh ám trợ kết cuộc đều có công cả. Thần lại đã từng cầm quân binh quỉ thần, dâng mệnh thiên đế, phá được giặc Chiêm Thành ở trấn Giáp Sơn. Đến khi thần mệnh một, linh hồn chẳng tan, thôn dân kính mến, lại sợ không người phòng thủ để ngừa bọn ngoại Lào cướp bóc, nhân thế mới lập đền thờ phụng. Bởi vậy thần còn được dịp nương bóng mà phảng phất trong khoảng trời mây. Hễ khi nào có dùng binh, thì thần lại ám hộ từ trên không: bọn nghịch tặc vào cướp đều bị ngăn chống cả. Hôm nay gặp bệ hạ loan giá quang lâm, thần riêng đến xin bái yết. Đoạn rồi ông có ngâm thơ rằng:
Thiên hạ toàn mông muội
Cô vi ẩn thanh danh
Trung nguyên yết nhật nguyệt
Quang diệu thị chân hình.
Nghĩa là:
Người đời thường sao nhãng
Nên ta ẩn thanh danh
Giữa trời theo ngày tháng
Làm rạng rỡ chân linh.
Dứt lời thì không còn thấy đâu nữa. Nhà vua chưa kịp đối đáp; bỗng nhiên giật mình tỉnh dậy, liền đem nói hết với kẻ tả hữu. Quan ngự sử đại phu là Lương Văn Nhậm nói:
-Đó là lời thần có ý muốn hiển linh để mà lập hình tượng.
Nhà vua truyền lệnh xin keo, thì lập tức thấy ứng nghiệm, bèn sai người trong châu lập đền thờ và tạc một thần tượng y như vua đã trông thấy trong mộng. Miếu mạo sum nghiêm, làm phúc thần cho cả một phương.
Trong niên hiệu Nguyên Phong (1251-1253, đời vua Trần Thái Tông), rợ Thát Đát vào cướp mà ngựa chúng què không thể tiến được. Thôn dân vốn biết có sức thần giúp liền dẫn chúng nhân ra cự chiến, chém đầu quân giặc rất nhiều. Đám nghịch tặc chạy tứ tán, không dám trở lại nhòm ngó cõi bờ ta nữa. Khi đã bình xong giặc cướp, liền có sắc phong Chứng An quốc công và có chiếu ban cho cả thôn ấy đổi làm Chứng An hộ xá.
Niên hiệu Trùng Hưng (1285-1293, đời vua Trần Nhân Tông) năm đầu, giặc Bắc lại vào cướp phá nữa, đến đâu cũng đều đốt rụi cả, qua tới ấp này thì như có người phòng hộ, một mảy thu hào cũng không bị động tới.
Lúc dẹp xong giặc cướp, lại có sắc phong Chứng An vương. Sang năm thứ tư còn gia phong hai chữ Minh ứng. Niên hiệu Hưng Long thứ 21 (1293-1294, đời vua Trần Anh Tông, đây chỉ năm 1313) lại có thêm hai chữ Tá Quốc càng sáng tỏ sự linh ứng nữa vậy.” (4) Việt điện u linh bản A. 751 do Trịnh Đình Rư-Đinh Gia Khánh dịch còn có Phụ chép sự tích thần xã An Sở: “Gia Thông đại vương người làng Cổ Sở (sau đổi là An Sở). Bấy giờ thiên hạ gặp buổi mờ tối, người hào kiệt phải giấu họ tên. Đại vương còn trẻ tuổi, phong tư và tài nghệ khác thường, cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, có uy đức lại có sức trị được voi. Vương giúp vua Lý Nam đế (đồng thời với vua Vũ Đế nhà Lương), vua thấy tài mạo, biết là bậc đại trượng phu, có thể đảm đương một mặt trận, bèn cho theo việc binh, lập được nhiều công to. Sau thấy đất Đỗ Động ở biên giới, một nơi xa và hiểm yếu, phi đại vương không ai cai trị nổi, vua mới cho vương làm đại tướng ra trấn thủ ở nơi đó. Một hiệu lệnh của vương ra, những kẻ hùng trưởng đều phải nín hơi, trộm cướp về hàng phục, dân trong hạt rất được yên vui, già trẻ đều cảm ơn đức.” Về sự tiêu vong của nhà Tiền Lý liên quan đến cái chết của Lý Phục Man tác giả viết tiếp: “Không may cho nhà Lý, năm Thiên Đức thứ 2, Ất Sửu (545), nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem binh sang xâm lấn, thắng ta luôn mấy trận, đất Chu Diên, Tô Lịch đều về tay địch chiếm. Năm thứ 4, Đinh Mão (547), quân Lương thừa thắng tiến đánh rất mạnh. Nam đế phải lui vào giữ động Khuất Lạo được ít lâu rồi mất. Thái úy nghe tin buồn rầu than thở, sai quân giữ các nơi hiểm yếu. Một đêm bỗng thấy bốn mặt lửa sáng rực trời, man binh lũ lượt kéo đến trước sân vây bọc. Thái úy biết là bọn man binh phản công, mệnh trời khó biết, mới dẫn các gia tướng phá vòng vây chạy ra. Quân giặc đuổi theo rất gấp, đường cùng sức kiệt, Thái úy liền chỉ trời vạch đất ung dung chết vì nghĩa lớn. Người nhà rước linh cữu về bến Hồ Mã (nay là bến Ngọc Tân, tên một con sông ở bản xã) rồi táng ở bên sông ngoài làng.”(5) Như thế Lý Tế Xuyên đã cho biết thông tin về Lý Phục Man từ khi ông làm nên sự nghiệp cho đến lúc hóa thần và sự ứng nghiệm linh thiêng của thần với sự nghiệp trung quân ái quốc, cụ thể là hai triều đại Lý-Trần.
Sách cổ ghi chép kiệm lời vì quan niệm xưa quốc sử chú trọng trên hết là chép về các triều đại theo lối biên niên, vua chúa thay nhau “cha truyền con nối, trị vì thiên hạ”, việc quan dân chỉ là phụ họa cho sự nghiệp của các “hoàng đế”. Phương pháp luận đó khiến sử gia Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê đã căn cứ theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên, tham bác nhiều tài liệu khác như Việt điện u linh... chẳng hạn, để biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Phần Ngoại kỷ ghi chép lịch sử dân tộc Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương đến năm 967 chủ yếu là sưu tập các truyền thuyết xung quanh những thông tin không nhiều từ các nguồn thư tịch. Sự thận trọng đó đã đẩy lùi cột mốc lịch sử ra đời một hình thức nhà nước quân chủ phong kiến, độc lập tự chủ của dân tộc Việt đến thế kỷ X-mà lẽ ra vua Lý Nam đế với sự ra đời của nước Vạn Xuân có thể coi là người mở đầu. Vấn đề lai lịch, quê quán của nhân vật Phạm Tu khi các tác gia sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi tên ông thì dãn cách thời gian cũng đã qua đi khoảng thời gian trên dưới 1.000 năm. Theo nguồn chính sử này, võ tướng Phạm Tu đã nổi tiếng ở tầm quốc gia ngay từ lúc sinh thời. Song, cũng từ đây về sau ánh sáng từ tấm gương hy sinh vì nước, cuộc đời làm tướng anh dũng vẻ vang của ông luôn truyền cảm, dẫn độ các tác gia đời sau không thể bỏ qua tính danh Phạm Tu hoặc Lý Phục Man, khi có dịp biên soạn lại sử Việt, cho dù lượng thông tin ít ỏi đến mấy.
Ở đây cần xét xem trong khoảng bảy năm (541-548) đời vua Lý Nam đế có mấy lần đánh đuổi giặc Lâm Ấp? Thực tế chỉ có một lần duy nhất là năm 543. Đại Việt sử ký toàn thư phần Ngoại kỷ (quyển IV) chép: “Quý Hợi năm thứ ba (543), mùa hạ, tháng Tư vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức.
Giáp Tí, Thiên Đức thứ 1 (544), mùa xuân, tháng Giêng, vua nhân đánh được giặc, tự xưng là Nam Việt đế, lên ngôi, đổi niên hiệu, đặt trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân là ý mong xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Lấy Triệu Túc làm thái phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn và tướng võ.”(4) Một trong ba người giữ vai trò chủ chốt giúp vua Lý Nam đế ở ba lĩnh vực khi mới dựng nghiệp thì chỉ có một vị quan võ là Phạm Tu, chứng tỏ Phạm Tu và Lý Phục Man chỉ là tên gọi khác nhau của một người. Cho đến nay, thực tế thống kê hàng chục tài liệu khác nhau đều cho kết quả đó. Vì chiến công dẹp quân Lâm Ấp giữ gìn cương thổ nên tướng Phạm Tu mới nổi danh hơn khi còn làm quan ở một vùng châu thổ. Khi Phạm Tu được vua ban quốc tính tức là họ Lý và danh hiệu Phục Man, lại được vua gả công chúa ông trở thành phò mã. Lẽ thường theo “mệnh vua phép nước”, bản thân đương sự là Phạm Tu và “phận con dân” thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi thế hệ người đời không thể trái mệnh vua, nên ngay từ lúc sinh thời tục danh Phạm Tu dần lui vào quá khứ. (i) Quan hệ xã hội của Lý Phục Man ở chốn vương triều ngày một rộng, to nhỏ thì cũng vừa là thân vương vừa là tướng lĩnh đầu triều, bởi vậy thế lực của Lý Phục Man chỉ cần “ăn theo” cơ chế của giai cấp thống trị đương thời cũng đủ dư thừa thực ấp, cũng như mọi uy quyền không chỉ trong phạm vi trấn xứ mà đã ở tầm quốc gia. Với cương vị đại tướng mà bên cạnh vua Lý Nam đế chỉ có Tinh Thiều làm tướng văn và Lý Phục Man làm tướng võ, được chính sử ghi lại hẳn không phải là bất cẩn. Ngoại kỷ chép về danh tướng Phạm Tu với tư cách một vị tướng giỏi của vua Lý Nam đế bằng tên “khai sinh” cho đến khi ông đánh thắng giặc Lâm Ấp, với những tư liệu do Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên để lại, đó là tôn trọng một sự thật lịch sử. Danh xưng Phạm Tu như các sử gia chép ở phần Ngoại kỷ với sự kiện đánh thắng giặc Lâm Ấp, sự kiện lớn gắn liền với sự nghiệp đánh giặc cứu nước của ông. Không những thế, thắng lợi ở biên cương phía nam đương thời đã tạo thế đứng cho vua Lý Nam đế thế kỷ VI. Song, khi sách viết đến phần Bản kỷ, ở quyển II, Kỷ nhà Lý, thì nhân vật Phạm Tu đã trở thành vị thần thiêng Lý Phục Man. Mặt khác, theo quan niệm của người Việt, dù thần thánh ở bậc nào, thiêng liêng, phù phép cao thủ đến đâu, vẫn phải “phò vua giúp nước” thì mới tồn tại. Vì vậy, vào “Bính Thìn năm thứ bảy, mùa xuân, tháng ba (1016) động đất. Vua nhân đi xem ngắm núi sông, đến bến đò Cổ Sở, thấy khí tốt của núi sông tâm thần cảm động…”. Sau đoạn văn trên là trọn vẹn câu chuyện kể cả tình tiết và văn phong, thể hiện là Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại trọn vẹn sách Việt điện u linh như đã dẫn đoạn trên. Lúc này danh tướng Phạm Tu dường như chỉ còn dấu ấn trong trang sử thời Tiền Lý, còn giờ đây tên ông được gọi là thần thiêng Lý Phục Man hay thánh Giá bởi người đã “thác về trời” từ gần 1000 năm trước. (c)
Nhiều văn bia, thần tích xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII trở đi đều căn cứ văn bản Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư mà đổi thay chút ít, để biên soạn thần tích cho phù hợp nơi thờ, chỗ dựng bia thánh Giá thờ phụng Lý Phục Man; song hành trạng công tích mà nhân vật lịch sử từ khi còn mang tính danh Phạm Tu đến lúc được vua ban tên hiệu Phục Man và họ Lý của vua, gắn liền với các sự kiện đều thống nhất ở một con người, một triều đại Tiền Lý, được đời đời tôn vinh.
Xuất phát từ tinh thần tự cường dân tộc, bất cứ triều đại nào, thế lực nào thống trị, thì những trang sử hào hùng của quan dân Đại Việt đều được các bậc trí thức... nhiều khi làm quân sư hoặc theo lệnh vua chúa mà tăng bổ, biên soạn lại. Hình thức chuyển tải nội dung lịch sử thành diễn ca bằng sự kết hợp giữa hai thể loại thơ song thất, lục bát nhằm mục đích phổ biến sâu rộng kiến thức lịch sử đến tầng lớp bình dân, đã có nhiều thành tựu. Vào những năm bảy mươi của thế kỷ XVII, tác phẩm Thiên Nam minh giám đã ra đời, có đoạn viết:
Tiền Nam đế dâng công mở nước
Tôi thuẫn thành dùng được Phục, Tu
Vâng lời rửa hổ, trả thù
Ải Nam đã quạnh ngựa Hồ thả dong.
Soạn giả Hoàng Thị Ngọ khi phiên âm bản diễn ca đã bám vào thứ tự câu thơ, chú giải:
“129-Tiền Lý Nam đế: tức Lý Bôn, còn gọi là Lý Bí. Năm 541, Lý Bí nổi dậy đánh đuổi thái thú Tiêu Tư, xưng là Lý Nam đế.
130-Tôi thuẫn thành: người bề tôi trụ cột giữ gìn, giúp rập cơ nghiệp của nhà vua.
131-Phục, Tu:-tức Triệu Quang Phục và Phạm Tu (... ) Phạm Tu (?-545) quê ở Yên Sở, huyện Hoài Đức (nay thuộc Hà Tây). ông là võ tướng của Lý Nam đế, có công lớn trong việc đánh dẹp giặc và xây dựng nên nhà Tiền Lý.” (6)
Về tên gọi Lý Phục Man của danh tướng Phạm Tu người xưa khi cần đề cập đến có cân nhắc rất thận trọng. Chẳng hạn Thuật thần từ cựu bi dựng năm 1728 ở làng Giá (nay thuộc xã Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội) đã viết: “Đại vương là người làng này, từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, tài nghệ khác thường, giỏi cưỡi ngựa bắn cung và dạy voi. Thời vua Lý Nam đế, vua thấy thần là người kiệt xuất, đúng là một đấng đại trượng phu, có khả năng đảm đương những công việc lớn, liền cho thần theo việc quân. Thần đã lập nhiều chiến công hiển hách. Sau thần được phong làm đại tướng quân, trấn giữ vùng Đỗ Động Đường Lâm. Ở đây mỗi khi thần xướng lệnh thì bọn giặc cướp đều tháo chạy hoặc quy hàng tất cả. Nhân dân được yên vui, già trẻ đều đội ơn và ca ngợi công đức của thần.
Khi người Lâm Ấp đánh chiếm vùng đất Cửu Đức thì rất nhiều tin cấp báo về triều đình. Triều đình hội kiến, ai cũng tâu vua rằng: “-Ngoài Đỗ Động tướng quân, không ai có thể thắng được bọn giặc này!” (e) Vua liền xuống chiếu cho thần thống lĩnh các chư tướng đem quân đi, khi đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức. Biết tin, vua không ngớt lời khen ngợi và nói với các quần thần: “-Gặp thớ gỗ cứng mới biết được dao sắc, nay Đỗ Động tướng quân chỉ mới bắn vài phát tên mà đã phá tan quân giặc dữ, thật là một vị tướng anh hùng hào kiệt đất Sơn Tây vậy. Các bậc danh tướng thời xưa cũng không thể hơn được, không thể không ban thưởng.
Vì tướng quân đã quét sạch được quân rợ nên nhà vua bèn cho tước hiệu là Phục Man, cho thần được đổi họ theo họ Lý của vua; vua lại gả công chúa cho thần, phong thiếu úy cho thần, cho thần tham nghị triều chính đứng đầu các quan”. (7) Văn bia chữ Hán xưa rất tôn trọng quan niệm kiêng gọi tên húy, lại thường gọi đương sự với chức cao nhất tùy thuộc vào thời điểm mà người đó đảm nhiệm hoặc chỉ ghi Phạm công (với nghĩa là ông họ Phạm), nên lúc Phạm Tu làm quan trấn ải thì mang tên Đỗ Động tướng quân đồng nhất tên ông với vùng đất ông đang cai quản, khi được vua cho đổi họ Lý và phong tước Phục Man thì ông có tên Lý Phục Man. Cần lưu ý rằng, phần chính nói về tích thần của cả năm bài văn bia hiện diện ở đền thờ Lý Phục Man tại làng Giá, đều có sự kế thừa từ năm 1603 đến 1855, theo như Việt điện u linh hoặc Đại Việt sử ký toàn thư đã chép lại.
Bên cạnh những tài liệu khá rành mạch trên đây, tác giả sách diễn ca lịch sử ra đời cuối thế kỷ XVII như Thiên Nam ngữ lục có viết như sau:
Địch thời Phục Man, Phạm Tu
Trận phá nhắm mắt, thành đồ phản tay
(... )
Binh xâm Quảng Hóa, Nghệ An
Đua hơi cầm đói duổi đàn lợn con
Mạnh chi thằng rợ học khôn
Phạm Tu binh đến đuổi dồn phá tan.
Vua sai thái úy Phục Man
Người quê Đan Phượng có gan anh hùng
Bình sinh chí khí tang bồng
Quê ở Cổ Phái con dòng sinh ra
So đời một chẳng hai ba
Tương Như chẳng khuất, Liêm Pha chẳng thìn
Đến đoạn sau, khi tướng quân Phạm Tu đã dẹp xong ngoại xâm phía nam; giặc Lương lại đến từ phía bắc, tác giả viết tiếp:
Đêm khuya trời đất tối tăm
Ba vòng quân bọc một tầm nước sâu.
Lý Nam, Phạm tướng bảo nhau
Cơn này đã chẳng làm sao khỏi mình.
Câu chuyện được dẫn dắt qua mười bốn câu thơ nữa, thuật lại là Lý Nam đế bị giặc bao vây ở động Khuất Liêu:
Lý Nam thấy sự đã nghèo
Liệu chẳng khỏi nào thấy mình trong hang.
Theo văn cảnh lúc đó, các tác giả cho rằng:
Phục Man trấn giữ cõi xa
Nghe tin Nam đế phải thua triệt hồ.
Vua cùng tướng quân Phạm Tu
Và Khuất Liêu động thác hư lên trời.
Một mình âm ỉ khúc nhôi
Vua thăng, giặc dấy, cậy ai đấy là !
Chiêm Thành tuy nó ở xa
Sự trong nước loạn nó hòa đã hay.
Bằng con nó động đến đây
Nó xưa nồi náu, nó rày ngoài xông
Cái ngùi, cái ắt khôn mong
Phục Man có chí anh hùng làm chi.
Các trích đoạn Thiên Nam ngữ lục thể hiện tác giả cho rằng Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người khác nhau. Liên quan đến việc chú giải khi phiên âm văn bản, hai soạn giả Nguyễn Lương Ngọc-Đinh Gia Khánh cho biết địa danh Cổ Phái nay là làng An Sở, huyện Đan Phượng là quê hương của Lý Phục Man, còn Phạm Tu quê đâu không thấy tác giả khuyết danh trong nguyên bản nói đến. Vấn đề cần lưu ý là sự kiện thành lập nhà nước Vạn Xuân thời Lý Nam đế và nhân vật Phạm Tu, Lý Phục Man được tác giả Thiên Nam ngữ lục (8) miêu tả thành hai người khác nhau. Song chính từ nội dung kỷ Tiền Lý Nam đế (từ câu 2. 243 đến câu 2. 435) đã chứa đựng mâu thuẫn giữa các diễn biến thời cuộc và nhân vật lịch sử. Đoạn trên chúng tôi đã dẫn Đại Việt sử ký toàn thư nói rõ triều đại Lý Nam đế chỉ có một lần, một tướng Phạm Tu cầm quân đi đánh giặc Lâm Ấp vào “mùa hạ, tháng Tư” năm 543-lúc đó Phạm Tu chưa có danh hiệu Phục Man (thắng giặc man, man di trong chữ Hán là từ chỉ các tộc người thiểu số nói chung, ở đây là giặc Lâm Ấp) và chưa được vua ban cho họ Lý. Mở đầu việc vua Lý Nam đế sai quân đi dẹp giặc phía nam, sử ca Thiên Nam ngữ lục đã viết: “Địch thời Phục Man, Phạm Tu” cùng đi là không đúng với thực tế so với nguồn tư liệu chính sử đáng tin cậy nhất, làm cho người đọc hiểu rằng đó là hai vị tướng. Trong thực tế, phải sau khi chiến thắng giặc Lâm Ấp, Phạm Tu mới có tính danh Lý Phục Man do vua Lý Nam đế ban tặng cho. Nghĩa là từ sau “mùa hạ tháng Tư”-sau chiến thắng quân Lâm Ấp-khoảng từ năm 544 trở đi tính danh Lý Phục Man mới nổi tiếng đến mức xóa nhòa tên cũ là Phạm Tu. Vì thế lối chép biên niên sử mới xếp Phạm Tu vào phần Ngoại kỷ, tương ứng theo niên đại thế kỷ VI. Ở phần Bản kỷ các sử gia nhắc đến tên thần Lý Phục Man trong hai lần hiện hồn báo mộng cho vua Lý Thái Tổ và Trần Nhân Tông là sự kiện của thế kỷ XI và XIV như Đại Việt sử ký toàn thư đã chép. Đi xa hơn, Thiên Nam ngữ lục còn dựng lên chi tiết khi vua Lý Nam đế và Phạm Tu bị giặc Lương bao vây và giết chết ở hồ Điển Triệt cũng là lúc Lý Phục Man vẫn còn ở biên viễn phía nam, bởi câu “Phục Man trấn giữ cõi xa”, tạo cái cớ cho vị quan chức nào đó đã xem bói chân gà “... cái ngùi cái ắt...”(9) mà hạ thấp vai trò của tướng quân Lý Phục Man, rằng: “Phục Man có chí anh hùng làm chi”. Sử dụng tư liệu lịch sử để sáng tác văn học như thế là tùy tiện qua loa, khiến người đọc ít có điều kiện tham bác dễ hiểu sai lạc. Sáng tác văn học như diễn ca lịch sử xưa nay cũng như tiểu thuyết lịch sử đương đại cho phép tác giả được hư cấu hình tượng, sao cho điển hình nhân vật nổi bật, nhưng không được bịa ra sự kiện, không được “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”, gây nhận thức rối loạn cho người đọc.
Thế kỷ XIX còn để lại bộ sách Đại Nam nhất thống chí, quyển XXI, tỉnh Sơn Tây, các sử gia thời Nguyễn đã trở về với lối chép nghiêm cẩn: “Đền thần Yên Sở ở xã Yên Sở, huyện Đan Phượng. Thần người xã này, lúc còn trẻ võ nghệ hơn người, thờ Lý Nam đế, nhiều lần lập công lớn, nổi tiếng trung liệt, được làm đại tướng quân, lãnh hai miền Đỗ Động Đường Lâm, người Di, Lão phải xa lánh, dân địa phương được yên.”(10)
Năm 1938, Nguyễn Văn Huyên viết công trình Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam Lý Phục Man(11), khi dẫn Đại Nam nhất thống chí có so sánh rồi tiểu kết: “cái thật sự mới trong Thống chí so với Việt điện u linh tập chính là phần nói về cuộc đời của Lý Phục Man. Tên thần chỉ là một cái tên vay mượn. Cả tên lẫn họ của ông đều không phải là những tên gọi lúc ra đời. Chính vì ông đã dẹp được quân man Lâm ấp mà ông được đặt tên là Phục Man. Và nhà vua đã cho phép ông đổi tên họ thành họ Lý là quốc tính. Điều đó thường hay diễn ra trong lịch sử Việt Nam. Nhất là khi một vương triều mới lên ngôi, các bề tôi trung dũng đều được gia ân mang họ hoàng tộc. Và sau đấy con người chỉ còn được gọi bằng biệt danh. Đấy là trường hợp Lý Phục Man mà tên gốc đã hoàn toàn biến mất.” Tiếc rằng vì mê mải với những kiến giải dân tộc lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, Nguyễn Văn Huyên chưa dừng lại tìm đến tận nguồn tên gọi Phạm Tu. Hiện có đến hàng chục bản thần tích viết về Lý Phục Man, nhưng cũng chỉ có vài bản có chi tiết cho biết Phạm Tu là tục danh của Lý Phục Man, còn năm bài văn khắc Hán Nôm trên bia đá ở Yên Sở và phần lớn các thần tích chỉ nói đến đại từ chung là đại vương hoặc cặp từ vinh danh thần. (k) Ngay cả tên thần Lý Phục Man hầu như văn bia, văn cúng và ngôn từ giao tiếp người ta cũng kiêng gọi đích danh.
Băn khoăn trước những nguồn sử sách như vậy,với bút danh Chí Kiên, năm 1969 trên báo Hà Nội mới ngày 28 tháng 7 có đăng bài Phạm Tu của Vũ Tuân Sán, tác giả tóm tắt diễn biến cuộc kháng chiến chống giặc Lương của quân dân Nam Việt, sự ra đời của nước Vạn Xuân và nêu gương một số tướng lĩnh; đặc biệt là danh tướng Phạm Tu và đặt câu nghi vấn: “Hà Nội có thể tự hào là quê hương của tướng Phạm Tu, vốn người Thanh Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Theo thần phả còn giữ được ở địa phương, Phạm Tu sinh năm Bính Thìn (476) vào ngày10 tháng 3 âm lịch.” Lập tức, tư liệu do Vũ Tuân Sán công bố được Trần Quốc Vượng tin dùng khi tham gia biên soạn Lịch sử Việt Nam (tập 1, Nxb KHXH,1971): “Theo sử cũ và truyền thuyết dân gian, thủ lĩnh vùng Chu Diên là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí, đem dân binh theo Lý Bí trước tiên; tiếp theo đó là Tinh Thiều, Phạm Tu (người Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội, Lý Phục Man (hiện còn đền thờ ở Cổ Sở, Hoài Đức, Hà Tây) và nhiều hào kiệt các nơi khác cũng cùng Lý Bí kết làm đồng chí.-trang 114”. Đồng soạn giả Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHVTHCN, H,1983) ông viết dè dặt hơn: “Phạm Tu (có đền thờ ở Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội) cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.” Trước đó gần hai mươi năm, năm 1960 trong giáo trình Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập I) tác giả đã tham khảo Tư trị thông giám và Đại Việt sử ký toàn thư khi nhắc đến Phạm Tu, nhưng chưa có điều kiện chỉ rõ quê quán. Bốn năm sau, sách Danh nhân Hà Nội (tập I-1973) in lại bài báo của Vũ Tuân Sán với sự bổ sung một đôi câu đối vào cuối bài. Năm 1975, sách Hà Nội nghìn xưa của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Vũ Tuân Sán (tái bản năm 1998) có bài Lão tướng Phạm Tu giữ lại tinh hoa của bài báo. Có thể coi như bài viết được tái bản lần thứ tám trong kỷ yếu hội thảo Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử (1999). Ở đây bài viết có bổ sung thêm hai câu đối nữa. Tác giả viết: “Danh tướng Phạm Tu được khâm phong là Đô Hồ đại vương, được thờ làm thành hoàng thứ nhất ở đình Ngoài.” Gần đây, bài báo năm 1969 của Vũ Tuân Sán được in lại lần thứ năm theo nguyên bản trong sách Danh nhân Hà Nội (2004). Toàn tập những bài viết của Vũ Tuân Sán Hà Nội xưa và nay (2007) tái bản lần thứ sáu bài Phạm Tu.
Nếu quả đúng như vậy, coi như không chỉ quê hương danh tướng Phạm Tu đã được khẳng định mà gián tiếp các tác giả đã nêu rõ là Phạm Tu và Lý Phục Man là hai người. Vấn đề khoa học thật lý thú và đầy trở ngại vẫn được một số người quan tâm. Hướng tới khẳng định ý kiến về Phạm Tu và quê hương danh tướng, Lê Văn Lan viết: “nhận chân về Phạm Tu trở lên vừa khó khăn-mơ hồ, vừa mâu thuẫn-phức tạp. Chẳng hạn như những dòng viết về ông sau đây, trong bộ Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, H, 1991, tr. 744): Quê làng Giá, thuộc xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội (nay là Hà Tây). ông được vua Lý phong tước Phục Man tướng quân, đổi theo họ vua là Lý nên cũng gọi là Lý Tu hay Lý Phục Man, lại được vua gả công chúa Phương Dung cho... Mộ và đền thờ ông, nay hãy còn di tích tại quê ông ở làng Giá”.
Như vậy, ở đây có việc đồng nhất Phạm Tu với một vị thần
là Lý Phục Man, được sách cổ Việt điện u linh chép từ đầu thế kỷ XIV-và là vấn đề sử học được nêu ra đã lâu nhưng chưa được giải quyết. Do đó, nảy sinh một vấn đề trước tiên là: Quê hương bản quán của Phạm Tu ở đâu? Bởi vì, trong khi Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam cho rằng Phạm Tu là người quê ở làng Giá (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây) thì, chẳng hạn như Từ điển văn hóa Việt Nam hoặc vừa đây, sách Thành hoàng Việt Nam (Nxb Văn hóa Thông tin, H, 1997, tập II, tr. 565) đều khẳng định rằng: ông là người “quê làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội” hoặc “quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.” (12) Tác giả bài tham luận tiểu kết phần I: “những điều quan trọng, quý báu, cụ thể và sinh động như thế, trong cuộc đời và sự nghiệp của lão tướng Phạm Tu, đã được nguồn phát sóng văn hóa học dân gian ở Thanh Liệt cung cấp và Thanh Liệt xứng đáng với niềm tự hào về một quê hương văn võ song toàn: võ là Phạm Tu (476-545) quê hương là thôn Vực; văn là Chu Văn An (?-1370), quê mẹ sinh hạ ra ông tại thôn Văn, cùng xã Thanh Liệt.” (13).
Thực tiễn thời thuộc Lương của cõi Nam Việt đã để lại nhiều bài học lịch sử, trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước thì danh tướng Phạm Tu-Lý Phục Man nổi tiếng hơn cả. Những năm bốn mươi của thế kỷ XX, Nguyễn Văn Huyên đã đặt vấn đề tên thần, quê hương Lý Phục Man và nêu chính kiến. Đến nửa sau thế kỷ XX, Hà Văn Tấn là đồng tác giả trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam và hai cuốn Lịch sử Việt Nam vẫn giữ ý kiến riêng của mình khi viết phần khảo cứu, giới thiệu đình Yên Sở trong sách Đình Việt Nam (1998), ông đã viết: “Trong đình còn giữ nhiều đồ tế tự. Gian chính trong đình có bức hoành đề “Vạn cổ thiên thành”, có hai lọng, đồ bát bửu và hai con hạc đứng trên lưng rùa.
Đình thờ Phạm Tu hay Lý Phục Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam đế (541-548). Lễ hội hàng năm được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch.” (14)
Căn cứ vào thần phả và truyền thuyết dân gian ở xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Quy ước làng Ngọc Than do sở Văn hóa thông tin Hà Tây xuất bản năm 1995 có đoạn: “Thế kỷ VI, Phạm Chí (tức Phạm Tu) đã tập hợp 300 tráng binh của làng, tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, góp phần đánh đuổi giặc Lương, lập nên nhà nước độc lập Vạn Xuân.” Theo tài liệu sưu tầm, dịch thuật của Nguyễn Bá Hân, hiện ở xã Yên Sở còn ngôi chùa Lựa, chùa không thờ Phật mà là nơi thờ cha mẹ Phạm Tu. Và “Đây đúng chỉ là một ngôi miếu con mà tổ tiên chúng ta dựng trên mảnh đất nền nhà cũ của ông bà cụ Phạm Tôn ở xóm Lã Xá, nơi mà người con của quê hương, vị anh hùng dân tộc Phạm Tu đã sinh ra và lớn lên ở đó.”
Sau bài viết của Vũ Tuân Sán, hầu hết các tác giả tham gia hội thảo về danh tướng Phạm Tu ngày 8 tháng 9 năm 1998 đều nêu ý kiến đồng tình: Phạm Tu là một danh tướng thời Lý Nam đế, là một người khác tồn tại độc lập với danh thần Lý Phục Man “sinh ngày 12 tháng 3 năm Bính Thìn (476) tại trang Quang Liệt, tên cổ của Thanh Liệt”. Về năm mất “Theo thần phả, tả tướng Phạm Tu đã giúp Lý Nam đế cầm cự được gần hai năm, sau bị thất bại ở vùng Chu Diên, tức khu vực Hải Dương, Hưng Yên ngày nay, quân ta lui về giữ thành ở ngay cửa sông Tô Lịch (khu vực chợ Gạo, sau chợ Đồng Xuân hiện nay). Quân Lương xiết chặt vòng vây, quân ta đã chiến đấu ngoan cường. Chính trong cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt này, lão tướng đã ngoài 70 tuổi Phạm Tu đã anh dũng hy sinh... Đó là ngày 20 tháng Bảy năm Ất Sửu (545)” (14). Ngoài kỷ yếu Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử (1999), Phạm Hồng Vũ đã biên soạn và xuất bản Danh tướng Phạm Tu (2003) tiếp tục khẳng định những kết quả trên. Theo luận suy của Trần Quốc Vượng thì có thể thành Vạn Xuân của Lý Nam đế được dựng bên bờ hồ Thanh Đàm. Phạm Hồng Vũ đã tìm thấy “Dấu ấn thời gian còn in đậm trong mỗi cái tên của làng quê, liên quan đến những chiến tích của danh tướng Phạm Tu như cửa Triệu, cổng Đồn, cửa Trại; voi, ngựa, lá cờ, thanh kiếm, võng lọng và long, ly, quy, phượng được thể hiện bằng các gò đất và các thửa ruộng còn lưu truyền lại.”(15). Việc dân làng tôn vinh, thờ phụng Phạm Tu là thành hoàng làng là lẽ đương nhiên như 74 làng khác ở nhiều nơi trong nước. Loại bỏ dấu ấn của thuyết phong thủy (các gò đất mang danh long, ly, quy, phượng) thì chứng tích một thành Vạn Xuân hay cung điện sơ khai mà lại tồn tại chưa được 5 năm ở đây là đúng, bởi thế việc thờ vọng Phạm Tu ở Thanh Liệt là chính đáng. Đó là lẽ thứ hai khiến người đời không thể sao nhãng. Lẽ thứ ba, thần phả Phạm Đô Hồ đại vương Thanh Liệt xã (神譜笵都湖大王清列社) “sao lục tại đền Hùng Vương tỉnh Phú Thọ” năm 1934 không có tên người soạn thảo và ngày tháng ấn định văn bản nên độ tin cậy không cao. (g) Cuốn thông sử mới nhất Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, do Đỗ Văn Ninh chủ biên (2001) thận trọng chú thích: “Lý Phục Man là một nhân vật chưa xác định được rõ ràng nguồn gốc. Có người cho rằng Lý Phục Man với Phạm Tu là một. Vấn đề này cần được chứng minh.”
Theo chúng tôi, danh tướng Phạm Tu hay danh tướng, sau khi chết là danh thần Lý Phục Man chỉ là một người. Mỹ tự “Cảm ứng cư sĩ Phạm Tu, thụy Đô Hồ đại vương, thượng đẳng thần” (感應居士范修謚都湖大王尚等神) trong bản thần tích Phạm Tu ở Thanh Liệt có thể có sự nhầm lẫn. Bằng chứng chắc chắn là sinh thời Lý Nam đế chưa thể có sắc phong thần cho Phạm Tu, bởi lẽ nếu tướng Phạm Tu chết cùng Lý Nam đế ở động Khuất Liêu hay hy sinh ở cửa sông Tô Lịch thì ông còn chết sau vua; (a) thế thì mỹ tự Cảm ứng của Đô Hồ đại vương không bao giờ có là “Nam đế sắc vi” (南帝敕為) được. (h) Hai chữ Cảm ứng là do vua....... tặng thần Lý Phục Man trong sắc phong: “Năm Khánh Đức thứ 4 (1652), ngày 19 tháng 2... thần được vua ban thêm 18 chữ: Phổ Huệ, Phát Chính, Thi Nhân, Hùng Hồn, Côi Vĩ, Thuần Túy, Linh Uy, Cảm ứng, Phu Dũng”(16). Giả sử nếu có sắc phong cho Phạm Tu thì bắt buộc phải là loại văn bản hành chính do vua ban hành để khen thưởng, tuyên dương công trạng hoặc thăng chức cho người có thành tích hiện còn sống. Vả lại, việc đặt tên thụy xưa nay là do người sống đặt tên cho người mới chết, thường theo hành vi lúc sinh thời mà đặt. Sự nhầm lẫn này là bình thường trong các văn bản Hán Nôm bị sao đi chép lại, nhưng khi nghiên cứu cần thiết phải giám định tư liệu khi sử dụng.
Mười bản sắc phong đời Nguyễn-theo Phạm Hồng Vũ là sắc phong cho thành hoàng Phạm Tu-từ năm 1824 đến năm 1934 là những tài liệu xác thực. Ngoài ra ông còn viết: “Theo truyền thuyết dân vùng quê Thanh Liệt đã tự phong danh tướng Phạm Tu là nguyên súy và thêu lá cờ mang hai chữ nguyên súy bằng kim tuyến trên nền xanh xẫm xung quanh có tua vàng. Trong mỗi dịp lễ hội, cờ được cầm đi trước kiệu.” Và “danh tướng Phạm Tu là thần Tây Vực (thần võ phía tây) giáng trần dạy dân cày cấy, dẹp giặc Lương phương bắc, bình giặc Chiêm phương nam, xây dựng đất nước thái bình.” Vua Minh Mệnh “ân điển tặng thêm cho thần tước vị” là hai chữ Công Chính. Khi vua Thiệu Trị tại vị “nhân ngày đại khánh mừng thọ Minh Mệnh 50 tuổi” tặng thần thêm hai chữ Luyện Đạt, ghép nối thành Công Chính Luyện Đạt vào ngày 12 tháng 5. Hơn một tháng sau, ngày 18 tháng 6 năm 1884 có một sắc nữa lặp lại y nguyên. Bảy sắc phong còn lại của các vua Tự Đức (hai lần 1850 và 1879), Thành Thái (hai lần 1901 và 1903), Duy Tân (hai lần 1909 và 1913), Khải Định 1924 chỉ ghi nhận: “trẫm ghi nhớ công ơn rực sáng của thần” và “chuẩn y cho dân làng thờ phụng như cũ”. Điều đáng chú ý là danh tướng Phạm Tu được tôn thờ ở Thanh Liệt đã được coi là “thủy thần có công đức giúp nước che dân lâu nay linh ứng rõ ràng.” Ở làng Ngọc Than cũng có một điểm thờ Phạm Tu, thần phả cũng nhận là người làng và lại có sắc phong cho thần là Đông Hải đại vương. Rõ ràng là nhân dân đã truyền thuyết hóa lịch sử, tìm mọi cách đề cao vị thành hoàng làng mình, gán cho thần những điều linh dị, sao cho hợp với phong thổ, địa danh mà họ đã và đang cư trú. Đời sau, nhiều thế hệ sau vua theo các quan trình nghị ý kiến của dân mà phê duyệt. Sự sai lạc tình tiết, ghép nhặt các mảnh truyện ly kỳ không mấy ai quan tâm, chỉ có các nhà nghiên cứu, chép sử băn khoan khi có dịp cần xem xét. (d)
Tuy nhiên, dù có mấy nhược điểm trên, truyền thuyết hoặc truyền thuyết được chép lại trong gia phả, thần tích vẫn bộc lộ bóng dáng sự thật lịch sử khá rõ. Phạm Tu với tên thần là Đô Hồ đại vương ở Thanh Liệt “là thang mộc ấp”-đất vua ban. Ở đây “ơn tắm gội” có thể là của vua triều Nguyễn. Đình thờ Phạm Tu ở Thanh Liệt chỉ là một điểm thờ vọng được vua khẳng định lại chí ít là mười lần. Giả thiết việc sùng kính Phạm Tu và việc làng Thanh Liệt được cấp đất thờ cúng Phạm Tu xảy ra ngay khi ông còn tại thế, một khi công trạng của ông với dân đã được khẳng định, thì cũng là chuyện đã có trong lịch sử. Mở đầu bản thần tích viết “Phạm Tu cư sĩ” là xuất phát từ nguồn lịch sử gia đình. Biết đâu có lúc nào đó trong cuộc đời Phạm Tu trước khi nổi tiếng bởi chiến công dẹp giặc, cũng đã từng ở chùa làng Thanh Liệt hoặc theo học một nhà sư nào ở đây. Truyền thuyết về Phạm Tu ở Yên Sở kể rằng: “giáp Quả Tây là hàng giáp người nhà thánh, được trông nom nhà cửa mồ mả cha mẹ thánh Giá. Ngôi nhà cũ ở xóm Ngõ Xá có tên gọi là chùa Lựa. Một ngôi chùa không thờ Phật mà chỉ thờ cha mẹ ngài. Nhân dân trong vùng cho rằng các cụ đều là người nhà Phật.”(17) Thế kỷ VI, đạo Phật đã thịnh hành ở Nam Việt, “thiền học Việt Nam chính thức có căn cứ từ hai thiền sư Thích Huệ Thắng và Thích Đạo Thiền.”(18)
Theo ngôn từ Phật học thì Phạm Tu là thế danh, còn khi người hiển thánh thì dân gian tìm mọi cách phù hợp kiêng gọi húy hiệu nên gọi Phạm Tu là thánh Giá, Thiên Nam thánh, thần Lý Phục Man. Hơn tất cả là tính danh do chính vua Lý Nam đế ban tặng, tính thiêng liêng lại gấp bội lần tăng. (b) Quê hương Phạm Tu-Lý Phục Man nay là xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội đương nhiên là nơi có đền thờ, lễ hội tưởng nhớ lớn nhất. Con số thống kê chưa đầy đủ đã có 74 làng xã ở khắp vùng châu thổ Bắc Bộ lập đền thờ, mở hội nhắc lại công ơn danh tướng đủ nói lên tầm quan trọng của một anh hùng dân tộc, một danh nhân Việt Nam nổi tiếng từ thời Tiền Lý.
__________
(1). Theo tài liệu sưu tầm của Nguyễn Bá Hân.
(2). Việt điện u linh-Bản dịch của Ngọc Hồ-Nxb Cửu Long,1992.
(3-4). Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, H, 1988.
(5). Việt điện u linh, Bản dịch của Trịnh Đình Rư-Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, H,
(6). Thiên Nam minh giám, Nxb
(7). Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H,1995.
(8-9). Thiên Nam ngữ lục, Nxb Văn hóa, H, 1959.
(10). Đại Nam nhất thống chí, Nxb Khoa học xã hội, H,1972.
(11). Nguyễn Văn Huyên toàn tập (tập 2), Nxb Giáo dục, H, 2001.
(12-13-14). Danh tướng Phạm Tu và họ Phạm trong lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, H,1999.
(15-16). Phạm Hồng Vũ, Danh tướng Phạm Tu
(17). Văn bia Quán Giá, Nxb Thế giới, H,1995.
(18). Trương Sỹ Hùng, Tôn giáo và văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, H, 2007.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)